Nếu dầu không còn bán bằng USD?

D.KIM THOA 27/04/2022 17:00 GMT+7

TTCT - Hệ thống petrodollar (“đôla dầu mỏ”, tức mua bán dầu bằng đôla Mỹ - USD) - được thiết lập từ thập niên 1970 theo thỏa thuận giữa Mỹ và Saudi Arabia đã giúp USD trở thành đồng tiền chiếm ưu thế nhất - đang có nguy cơ lung lay khi nhiều nước đã và đang tính toán chuyển sang mua dầu bằng các đồng tiền khác.

Ba tuần sau khi xảy ra chiến sự tại Ukraine, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) phát thông cáo nêu rõ những đánh giá của tổ chức này về nguy cơ cũng như hậu quả của cuộc chiến với thế giới. 

“Cuộc chiến có thể làm thay đổi về cơ bản trật tự kinh tế cũng như địa chính trị toàn cầu nếu việc giao dịch năng lượng thay đổi, các chuỗi cung ứng tái cấu trúc, các mạng lưới thanh toán phân mảng và các quốc gia nghĩ lại về các khoản dự trữ tiền tệ của họ”, thông cáo viết. 

 
 Ảnh: Bitcoinmagazine

Đôla dầu mỏ trỗi dậy thế nào?

Hiện tại, khoảng 80% lượng dầu mỏ giao dịch trên thế giới vẫn đang được mua bán bằng USD. Tỉ lệ này đã ổn định trong suốt vài thập niên qua, bất chấp việc luôn có những nỗ lực muốn “lật đổ” thế thống trị của USD trên thị trường dầu mỏ.

Thực tế, việc nắm giữ đồng tiền được chọn làm tiêu chuẩn định giá cho mặt hàng thiết yếu như dầu mỏ mang lại cho nước Mỹ nhiều quyền lực, tất yếu bao hàm quyền lực chính trị. 

Nỗ lực bảo vệ vị thế đồng USD nói chung và đôla dầu mỏ nói riêng của Washington trong nhiều năm qua, do vậy, không nằm ngoài mong muốn bảo vệ thế thống trị của nền kinh tế số 1 thế giới.

Vị thế quốc tế của đồng USD ban đầu chưa gắn với dầu mỏ mà gắn với bản vị vàng. Sau Thế chiến II, Mỹ sở hữu dự trữ vàng lớn nhất thế giới. Họ đồng ý quy đổi mọi đồng USD thành vàng nếu các nước khác neo giá đồng tiền theo USD. 

Điều này được pháp điển hóa bằng một thỏa thuận được ký kết tại hội nghị Bretton Woods (New Hampshire Mỹ) năm 1944, thống nhất mức tỉ giá cố định cho các đồng tiền chính, quy định một ounce (khoảng 28gr) vàng có giá 35 USD. 

Chính hệ thống Bretton Woods kéo dài từ năm 1944 đến 1971 này đã giúp đồng USD có được vị trí quan trọng tuyệt đối, trở thành đồng tiền quốc tế.

Tới năm 1971, khi kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái và lạm phát, đồng USD lao dốc, nhiều nước đã đòi đổi đồng USD họ nắm giữ thành vàng. Nhằm bảo vệ nguồn vàng dự trữ, tổng thống Mỹ lúc đó là Richard Nixon đã xóa bỏ bản vị vàng của USD. 

Tiền USD giảm giá lập tức, giúp Mỹ vực dậy kim ngạch xuất khẩu do hàng hóa của họ trở nên rẻ hơn tương đối, nhưng đồng thời cũng làm giảm vị thế quốc tế của đồng tiền nội tệ Hoa Kỳ. 

Các nhà chiến lược Mỹ tìm kiếm một giải pháp thay thế khả dĩ cho bản vị vàng, và petrodollar đã ra đời - có thể gọi nó là đồng USD bản vị dầu mỏ cũng không sai.

Năm 1979, Mỹ và Saudi Arabia đàm phán và đi đến thống nhất dùng USD làm đồng tiền giao dịch trong các hợp đồng dầu mỏ. 

Saudi bán dầu cho Mỹ lấy USD và sau đó những đồng đôla này lại “ngược dòng” về Washington qua các hợp đồng mua sắm của Saudi với doanh nghiệp Mỹ. Các công ty Mỹ sẽ chuyển giao công nghệ cho Saudi để nâng cấp cơ sở hạ tầng cho nước này. 

Theo Wall Street Journal, kể từ năm 1974 tới nay, Saudi Arabia, nước xuất khẩu dầu mỏ số 1 thế giới, chỉ chấp nhận duy nhất USD trong giao dịch bán dầu, theo một thỏa thuận ký kết với chính quyền tổng thống Nixon, để đổi lấy nhiều điều từ Washington, bao gồm cả sự đảm bảo an ninh.

Hầu hết các nước xuất khẩu dầu mỏ do đó lựa chọn neo giá đồng tiền của mình với USD. Bằng cách này, nếu đồng USD giảm giá, giá các hàng hóa và dịch vụ nội địa của họ cũng giảm, giúp họ tránh được các đợt lạm phát hay giảm phát lớn. 

Nhưng cũng đã có những nước nhận ra hệ lụy của việc lệ thuộc quá sâu vào USD trong giao dịch quốc tế.

 
 Các cuộc đàm phán giữa Saudi Arabia và Trung Quốc về việc mua bán dầu bằng đồng nhân dân tệ đã được thảo luận không liên tục trong suốt 6 năm qua và được đẩy mạnh hơn những ngày gần đây. Ảnh: AP

Nhiều nước muốn “thoát USD”

Thực tế, mong muốn thay đổi đồng tiền trong giao dịch dầu mỏ của một số nước không mới. Nhiều năm qua, thế giới đã chứng kiến một số nỗ lực “thoát đôla” khá rõ ràng.

Đầu tháng 6-2021, Nga tuyên bố sẽ thay thế khoảng 40 tỉ USD trong Quỹ Thịnh vượng quốc gia (NWF) của họ bằng nhân dân tệ, euro và vàng. 

Lúc đó, Bộ Tài chính Nga xác nhận quỹ NWF đang có khoảng 35% là USD. Đó là một tỉ lệ cao bất ngờ, vì cần nhắc lại từ năm 2009, tổng thống Nga lúc đó Dmitry A. Medvedev đã cảnh báo về hệ lụy của việc lệ thuộc vào USD.

Dù không mới nhưng rõ ràng những chiến lược rời khỏi “vùng ảnh hưởng” của USD đã được thúc đẩy lên một cấp độ khác khi chiến sự bùng nổ tại Ukraine. 

Ngay cả khi một số nước không ủng hộ cuộc chiến của Nga, họ vẫn chỉ miễn cưỡng ủng hộ quan điểm của Mỹ và châu Âu trong cuộc chiến tại Ukraine khi điều đó có thể ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của họ.

Ngày càng nhiều nước không còn muốn lệ thuộc quá sâu vào đồng USD trong các giao dịch dầu mỏ. Điển hình nhất phải kể đến quyết định gần đây của Ấn Độ khi mua dầu của Nga bằng đồng rúp hoặc rupee. 

Tháng trước, trong bối cảnh Mỹ và châu Âu cấm vận năng lượng Nga, Ấn Độ đã tranh thủ đạt được thỏa thuận thanh toán bằng rúp hoặc rupee với Nga để mua nguồn dầu mỏ dồi dào từ Nga với giá chiết khấu rất sâu so với giá thị trường.

Sẽ có petroyuan (nhân dân tệ dầu mỏ)?

Cuối tháng 3 vừa qua, báo Wall Street Journal đăng bài độc quyền nói Saudi Arabia - quốc gia chủ xướng trong Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) - đang cân nhắc phương án chấp nhận đồng nhân dân tệ của Trung Quốc thay cho USD trong hợp đồng bán dầu.

Thực tế các cuộc đàm phán giữa Saudi Arabia và Trung Quốc về vấn đề này đã diễn ra đứt nối suốt 6 năm qua, và được thúc đẩy mạnh hơn năm nay giữa lúc Riyadh ngày càng “bằng mặt mà không bằng lòng” với Washington về rất nhiều vấn đề.

Trung Quốc hiện đang là khách hàng mua hơn 25% lượng dầu xuất khẩu của Saudi Arabia. Nếu lượng hàng này được mua bằng nhân dân tệ, đồng tiền của Trung Quốc đương nhiên sẽ có vị thế khác. 

Các nguồn tin của Wall Street Journal cũng nói không chỉ cân nhắc chọn nhân dân tệ trong các hợp đồng giao ngay, Riyadh còn xem xét việc này cho cả các hợp đồng giao sau.

Theo số liệu cập nhật hằng tháng mới nhất của OPEC trong tháng 3-2022, Trung Quốc nhập khẩu khoảng 10,5 triệu thùng dầu mỗi ngày, khoảng 25% trong đó đến từ Saudi Arabia, số còn lại do các nước Nga (1,76 triệu thùng/ngày), Iraq và Angola cung cấp. 

Saudi Arabia cũng là nước cung cấp dầu thô chính cho Nhật Bản và Ấn Độ, hai nền kinh tế lớn thứ hai và ba ở châu Á - và thứ ba và thứ bảy trên thế giới.

Thực tế, ngay cả khi Saudi Arabia chấp nhận định giá chỉ phần nào đó trong khoảng 6,2 triệu thùng dầu xuất đi mỗi ngày bằng một đồng tiền khác USD, đấy đã đủ là một sự thay đổi sâu sắc rồi. 

Nhằm thúc đẩy tính phổ biến của đồng nhân dân tệ, từ năm 2018 Trung Quốc đã bắt đầu đề xuất những hợp đồng mua dầu bằng nhân dân tệ, nhưng việc này vẫn chưa đủ để khiến vị thế của đồng USD “sứt mẻ” bao nhiêu.

“Đôla dầu mỏ” có bị đe dọa?

Trước xu thế muốn “thoát đôla” của một số nước như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và thậm chí có thể là Saudi Arabia, giới quan sát đặt vấn đề liệu hệ thống đôla dầu mỏ có thể tiếp tục duy trì vị thế chủ đạo lâu dài nữa không?

Có 4 lý do để nhiều người cho rằng đồng USD sẽ vẫn giữ thế thượng phong của nó. Trước hết, đó là đồng tiền được Chính phủ Mỹ bảo trợ. 

Thứ hai, đó là phương tiện giao dịch phổ biến toàn cầu nhờ vào các thị trường tài chính và hệ thống thanh toán kết nối rộng khắp. 

Thứ ba, hầu hết các hợp đồng quốc tế được định giá bằng USD. 

Và thứ tư, có lẽ là lý do quan trọng nhất, nước Mỹ là khách hàng lớn nhất của nhiều nước.

Những nước là đối tác xuất khẩu chính cho Mỹ đều đã chấp nhận USD như một loại tiền tệ của họ, trong khi đó nhiều nước khác cũng áp dụng chính sách neo giá theo đồng USD, vì thế không dễ để họ chuyển sang đồng tiền khác. 

Dù Trung Quốc muốn thúc đẩy sự thay đổi vị thế toàn cầu của USD nhưng hiện tại chính họ vẫn đang là một trong những nước có lượng dự trữ ngoại hối bằng USD lớn nhất thế giới.

Việc thay thế đồng USD không đơn giản, ít nhất trong tương lai gần, vì chưa có một lựa chọn nào khác đủ tốt hơn. 

Một số ý kiến cho rằng đồng euro có thể thay thế USD bởi dự trữ ngoại hối bằng euro của các chính phủ toàn cầu đang tăng đều đặn. Cụ thể, trang TheBalance dẫn dữ liệu của IMF cho biết từ quý 1-2008 đến quý 1-2020, lượng dự trữ bằng đồng euro đã tăng gấp đôi, từ 1,16 ngàn tỉ lên 2,19 ngàn tỉ euro. 

Nhưng trong cùng thời gian đó, lượng dự trữ bằng USD vẫn chiếm 61,99% trong tổng số dự trữ ngoại hối tương đương 11 ngàn tỉ USD của các nước. Mức này chỉ giảm một chút so với tỉ lệ 62,94% trong quý 1-2008.■

Có một xu thế khác có thể sẽ tác động tới đôla dầu mỏ, đó là việc nhiều nước đang giảm phát thải khí nhà kính để chống biến đổi khí hậu. Khi nhiều nước chuyển sang xe điện và dùng nhiều hơn điện gió, điện mặt trời, nguồn thu từ dầu mỏ và khí đốt sẽ giảm, theo đó đôla dầu mỏ có thể mất đi ít nhiều vị thế của nó nếu so với hiện nay.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận