09/07/2006 16:38 GMT+7

Rối nước Việt cổ truyền: cần một ứng xử văn hoá thích đáng

Theo TS Nguyễn Thị Minh Thái - Lao động
Theo TS Nguyễn Thị Minh Thái - Lao động

Thật chạnh lòng khi xem rối nước cổ truyền ở Hà Nội, chỉ thấy hầu hết khán giả là du khách nước ngoài, mà quá ít người thủ đô. Ở Festival Huế năm 2004, người Việt cũng không mặn lắm với rối nước cổ.

2ovNHWgw.jpgPhóng to
Một buổi diễn của phường rối nước Đào Thục, huyện Đông Anh (Hà Nội)

Một

Tôi nhớ năm 1984, lần đầu tiên, Đoàn Nghệ thuật sân khấu dân tộc VN, gồm 4 loại hình truyền thống: Rối nước, tuồng, chèo, cải lương đã "đem chuông đi đấm" các xứ ở Đức (cả hai nước Đức lúc đó), Bỉ, Pháp, Italia... ròng rã hai tháng trời. Công chúng Tây Âu choáng váng nhất là rối nước Việt.

Báo chí của họ đã dành lời đẹp nhất cho rối Việt: "Múa rối nước, nghệ thuật dân gian, huyền thoại và kỳ ảo trên mặt nước. Sự phát hiện chói loà về những con rối Việt Nam.(...) Tính dân gian và tính huyền thoại kết hợp với nhau trong những màn kịch ngắn được đệm theo bằng tiếng hát, bằng tiếng nhạc của bộ gõ nâng đỡ: một cuộc sống thần tiên, ngây thơ đang làm xáo động mặt nước đen tù túng. (Báo Thập Tự, Pháp, 10-3-1984). Sau 1984, hàng năm, rối nước Việt liên tiếp xuất ngoại, mở rộng bản đồ chinh phục.

Tôi ngờ rằng, người xem phương Tây đã phải lòng rối nước cổ truyền VN theo cách mà nhân loại văn minh từng được hân hoan trở về giấc mơ rực rỡ thời thơ ấu của mình, qua cây cầu văn chương là thần thoại Hy Lạp. Rối nước VN - có lẽ chỉ sau thần thoại Hy Lạp - bằng sự hồn nhiên, ngộ nghĩnh, trong trẻo, ngây thơ, mang linh hồn đồng ruộng VN... đã tự nhiên thành nghệ thuật duy nhất trong cái thế giới đang già cỗi này, bắc được cây cầu sân khấu, và một lần nữa, đưa nhân loại về bản nguyên thơ dại của mình...

Hai

Vì thế, ngạc nhiên dai dẳng nhất của tôi là tại sao người Việt, trẻ em Việt lại không mấy nao nức xem rối nước của mình? Và, rối nước - vốn là của cải văn hoá phi vật thể đặc sắc bậc nhất VN - cách đây vài năm, khi đưa hồ sơ đề nghị UNESCO phong tặng Di sản văn hoá phi vật thể thế giới, lại bị trả về, vì chưa đủ minh chứng đây là sân khấu dân gian lâu đời và độc đáo duy nhất chỉ có ở làng quê Việt cổ truyền! Rõ ràng, người ta vẫn lúng túng trong việc hoàn tất hồ sơ và trong ứng xử văn hoá với chính của cải nghệ thuật của mình. Đến bao giờ thì rối nước sẽ đầy đặn hồ sơ; bao giờ thì quan họ, chèo cổ, ca trù... sẽ lọt vào tầm ngắm của UNESCO? Trách nhiệm trả lời câu hỏi ấy, trước hết thuộc về Bộ Văn hoá - Thông tin.

Ba

Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng - Chủ tịch UNIMA (Hiệp hội Múa rối thế giới) VN, Chủ nhiệm CLB Múa rối truyền thống, sở hữu một bảo tàng múa rối nước tại gia, cách Hà Nội hơn 40 km - sau gần nửa thế kỷ suy ngẫm về văn hoá Việt và rối nước Việt cổ, đang rất ưu tư về nguy cơ mất hồn dân gian, dân tộc đã nhãn tiền của rối nước cổ truyền. Theo ông, UNESCO có lý, vì hồ sơ Rối nước đã không thể hiện được cốt lõi dân gian cổ truyền của chính rối nước Việt. Những chương trình hiện đang biểu diễn ở các đô thị Việt Nam, kể từ sau 1984, hầu như không còn là rối nước cổ truyền.

Thay vì phát huy, có nơi đã làm động thái phát triển, bằng cách thêm thắt cho rối cổ những cái mới: kịch bản, lời thoại (khi cấu tạo hoàn toàn là sự xâu chuỗi các trò lẻ, không lời, chỉ thuần động tác của diễn viên là con rối gỗ), hơn nữa, lại thêm nếm hát chèo, nhạc chèo, nhiều đến mức phá vỡ cấu trúc trò diễn và cái đẹp trong những động tác sân khấu của con rối gỗ, do người diễn viên đứng trong nước, sau bức mành, điều khiển, khiến người xem nhầm tưởng đây là sân khấu" rối-chèo".

Ấy là chưa kể có nơi còn đưa cả người thật lội nước vào diễn chung với con rối ngay trong sân khấu nước, gây phản cảm. Và quanh đi quẩn lại, vẫn chỉ có hơn chục trò rối nước cổ, mà "pha loãng" ra, thí dụ trò lẻ cổ truyền: Long-ly-quy-phượng, đã bị bẻ ra làm 4, thành rồng phun nước, phun lửa, lân tranh cầu, rùa ngụp lặn... Nhân danh "chuyên nghiệp hoá", "nâng cao, phát triển", người ta đã vô tình đánh mất hồn rối nước cổ truyền. Nguyễn Huy Hồng cho rằng, hồn vía rối cổ gắn liền không gian văn hoá châu thổ sông Hồng, với nền văn minh lúa nước điển hình. Mất đi tương quan đó, là rối nước mất hồn, mất luôn cả vẻ đẹp nguyên thuỷ.

Từng nhiều năm điền dã hàng chục tỉnh châu thổ sông Hồng, tận mặt khoảng 30 phường rối nước dân gian, Nguyễn Huy Hồng thống kê được 600 trò rối cổ, và lọc ra 250 trò độc lập, không trùng lặp. Đây đích là rối cổ vàng ròng, phải được khai thác, thanh lọc, xếp loại, đánh giá, đặng tìm đặc trưng rối nước Việt cổ. Tiếc rằng, ông đã không thể làm công việc này một mình.

Vừa gọi điện cho tôi từ làng Đồng Vàng, nơi có miếng đất hương hoả đã được ông tạo tác thành bảo tàng rối nước... tại gia, Nguyễn Huy Hồng bảo đã học được cách ứng xử văn hoá thích đáng với rối nước, từ phương pháp nghiên cứu của Viện Văn hoá Nghệ thuật. Ông cười sung sướng, bảo vừa được biếu cuốn sách Vùng văn hoá quan họ, hơn nghìn trang, gồm 800 bài của 300 tác giả, Viện Văn hoá Nghệ thuật ấn hành.

Giống cách ta đã làm với văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên, công nhận giá trị phi vật thể của cồng chiêng trong sự công nhận cả một vùng văn hoá Tây Nguyên, cuốn sách này đã dùng phương pháp: Đặt quan họ vào bối cảnh văn hoá vùng Kinh Bắc của châu thổ Bắc Bộ, và công nhận cả một vùng văn hoá Bắc Bộ bao quanh. Ông hồ hởi ao ước: Sẽ phải làm như thế, đối với rối nước Việt. Ước gì, chúng ta có một công trình lớn tương tự, tìm về tận nguồn rối nước trong vùng văn hoá châu thổ sông Hồng...

Theo TS Nguyễn Thị Minh Thái - Lao động
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên