Công nghiệp 4.0: đảo lộn tất thảy

Tuổi Trẻ Cuối Tuần

TTCT - Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với chiến lược số hoá và tự động hoá rộng khắp sẽ ảnh hưởng thế nào đến quản trị công, thu thuế, phòng chống tội phạm và cả chuyện du lịch? Việt Nam đã sẵn sàng thế nào cho xu hướng này?

Việt Nam chưa sẵn sàng cho cách mạng công nghiệp 4.0

ĐÀO TRUNG THÀNH (*) 19/03/2018 20:03 GMT+7

TTCT - Báo cáo “Sự sẵn sàng cho tương lai của sản xuất năm 2018” (Readiness for the Future of Production Report 2018) do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) và Hãng tư vấn chiến lược A.T. Kearney vừa xuất bản, đã đưa ra nhiều thông số đáng lo cho Việt Nam.

WEF diễn ra tháng 1 vừa qua tại Davos (Thụy Sĩ) với chủ đề “Tạo dựng một tương lai chung trong thế giới rạn nứt”, tập trung thảo luận tình hình kinh tế toàn cầu và những căng thẳng địa chính trị đang nổi lên. Chủ đề đó cũng phản ánh cái nhìn về một thế giới đã xuất hiện những rạn nứt đáng kể trong mối quan hệ giữa các cường quốc trong năm qua, đầy những chia ly và trục trặc về cả chính trị cũng như kinh tế.

Tăng trưởng toàn cầu đang phục hồi, những lo ngại về kinh tế đã giảm mạnh. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng về thu nhập là vấn đề lớn ở nhiều quốc gia, sự tự mãn về môi trường kinh tế trong khi mức nợ cao, tỉ lệ tiết kiệm thấp được cảnh báo và các điều khoản lương hưu không đáp ứng đủ đang gây lo ngại.

 

Bởi sản xuất là động lực phát triển của xã hội loài người, nên các nước luôn chú ý về hiệu suất của nền kinh tế thông qua sức sản xuất, mức độ đóng góp của sản xuất vào GDP của quốc gia. 

Báo cáo “Sự sẵn sàng cho tương lai của sản xuất năm 2018” đã đo lường vị thế của 100 quốc gia và nền kinh tế trải rộng trên các khu vực địa lý nhằm định hình nền sản xuất toàn cầu theo hướng mang lại lợi ích từ sự thay đổi bản chất của sản xuất bằng cách áp dụng công nghệ mới. 

Báo cáo này cũng được dùng như một công cụ chẩn đoán nhằm thúc đẩy đối thoại đa bên, hình thành các cương lĩnh hành động chung và cung cấp thông tin dự báo cho sự phát triển các chiến lược công nghiệp hiện đại của các quốc gia.

Định vị và thay đổi

Đánh giá về sự sẵn sàng (Readiness Assessment) được thực hiện lần đầu tiên năm 2018 nhằm đánh giá tương lai của sản xuất khi phân tích các quốc gia định vị nền sản xuất như thế nào để hình thành và hưởng lợi sự thay đổi cơ bản của sản xuất trong tương lai.

Mô hình đánh giá tính sẵn sàng tương lai của sản xuất
Mô hình đánh giá tính sẵn sàng tương lai của sản xuất

Đánh giá được tạo thành từ hai thành phần chính: cấu trúc sản xuất (Structure of Production), là hiện trạng cơ sở sản xuất của quốc gia hay nền kinh tế được đánh giá; và các động lực sản xuất (Drivers of Production) - những động lực chủ chốt nhằm định vị một quốc gia trong khả năng tận dụng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để biến đổi hệ thống sản xuất của quốc gia mình.

Đánh giá đã thực hiện dựa trên 59 chỉ số. Sau đó, 100 quốc gia được đánh giá được sắp xếp thành 4 nhóm hình mẫu kinh tế cơ bản dựa trên trình độ của nền kinh tế, xét theo hai mặt: cấu trúc sản xuất và động lực sản xuất.

Sau khi thực hiện đánh giá, nhóm nghiên cứu đã thiết lập một bản đồ toàn cầu phân bố nền kinh tế của các quốc gia được đánh giá theo 4 nhóm hình mẫu kinh tế cơ bản gồm: nhóm tiềm năng cao, nhóm dẫn dắt, nhóm đang phát triển và nhóm di sản.

Việt Nam ở đâu trong nền sản xuất thế giới?

Báo cáo đưa rất nhiều thông tin chi tiết được rút ra từ đánh giá định lượng cũng như các hoạt động nghiên cứu sâu hơn ở Ấn Độ, Mexico, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên bang Nga, Nam Phi và sáu quốc gia thuộc ASEAN.

Trong số 100 quốc gia và nền kinh tế chiếm 96% giá trị sản xuất (Manufacturing Value Added - MVA) được đưa vào đánh giá, chỉ có 25 quốc gia từ châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Á thuộc nhóm dẫn dắt (Leading), hoặc ở vị trí tốt nhất để hưởng lợi từ sự thay đổi của sản xuất. 25 quốc gia này đã chiếm hơn 75% MVA toàn cầu và có khả năng tăng thị phần trong tương lai.

Khoảng 90% của các nước từ châu Mỹ Latin, Trung Đông, châu Phi và Âu - Á được phân loại vào nhóm đang phát triển (Nascent) hoặc nhóm nước ít sẵn sàng nhất cho sản suất trong tương lai. Việt Nam thuộc nhóm này.

Đánh giá được lập theo mô hình khá quen thuộc của Hãng tư vấn A.T. Kearney gồm 4 nhóm, trong đó vị trí trung tâm là giao điểm của trục hoành (cấu trúc sản xuất) ở điểm 5.7 và trục tung (động lực sản xuất) trong thang đo từ 0-10. Điểm trung bình 5.7 này là điểm trung bình theo trọng số của 59 yếu tố đánh giá trên 75 quốc gia. Theo đánh giá, cấu trúc sản xuất của Việt Nam được 5.0/10 và động lực sản xuất đạt 4.9/10.

Quy mô
Đánh giá tính sẵn sàng về sản xuất trong tương lai của Việt Nam.

Khi được xét về tính phức tạp của nền sản xuất dựa trên mức độ áp dụng các kiến thức, công nghệ nhằm tạo ra một sản phẩm phức tạp, Việt Nam chỉ được 4.4 điểm (đứng ở thứ hạng 72/100) cho dù quy mô (Scale) của nền kinh tế nằm ở top 20 (xếp hạng 17) trên thế giới. 

Độ phức tạp của nền kinh tế (Economic complexity) được hiểu là toàn bộ hệ thống liên quan đến quá trình sản xuất, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, giao nhận, xuất nhập khẩu hàng hóa sao cho nhanh chóng, thuận tiện, an toàn cho hàng hóa nói chung...

Về động lực sản xuất, Việt Nam có trình độ sử dụng công nghệ và đổi mới khá kém: xếp hạng 90/100 do hạ tầng công nghệ, chuyển giao tri thức, đầu tư của các doanh nghiệp vào công nghệ và chi tiêu cho nghiên cứu phát triển còn hạn chế.

Nhưng điểm đáng lo nhất chính là những thứ hạng về vốn con người (Việt Nam xếp hạng 70/100). Trong đó, các chỉ tiêu cụ thể đều ở mức rất tệ: kiến thức của người lao động đứng thứ 81, chất lượng đào tạo nghề đứng thứ 80, chất lượng các trường đại học đứng thứ 74, đào tạo qua công việc đứng thứ 74, chất lượng kỹ sư và nhà khoa học đứng thứ 70.

Chiến lược phát triển sản xuất nào cho Việt Nam?

Không phải tất cả các nước đều có thể tìm cách theo đuổi sản xuất tiên tiến trong tương lai. Một số nước vốn là điểm đến của thị trường lao động chi phí thấp vẫn có thể tìm cách nắm bắt các cơ hội sản xuất truyền thống theo mô hình hiện tại. 

Các nước khác có thể theo đuổi cách tiếp cận song song, với một số lĩnh vực theo đuổi sản xuất tiên tiến và các khu vực khác theo đuổi sản xuất truyền thống. Việt Nam có hầu hết những đặc trưng của nhóm đang phát triển nên cần có một chiến lược sản xuất tổng thể phù hợp với điều kiện và trình độ sản xuất.

Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của hành trình chuyển đổi và thực tế là chưa có quốc gia nào đạt đến sự sẵn sàng chín muồi để có thể khai thác trọn vẹn tiềm năng cách mạng công nghiệp 4.0 trong sản xuất. Vấn đề lớn nhất cần chú trọng là đầu tư cho vốn con người nhằm nâng cao hàm lượng tri thức ở người lao động, các hoạt động hướng nghiệp cho thanh niên cần đẩy mạnh và cung cấp các cơ hội nâng cao chất lượng tri thức bằng cách xây dựng các trường đại học, viện nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế.

Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ vào quản lý, điều hành sản xuất, thúc đẩy sáng kiến, đổi mới mô hình kinh doanh và từng biết hoàn thiện thể chế nhằm hỗ trợ chiến lược phát triển sản xuất ở tầm quốc gia. 

Việc áp dụng công nghệ mới phát triển tạo nên nhóm các ngành công nghiệp mới, tạo tiền đề cho “đại nhảy vọt” (leapfrogging). Công nghệ mới đóng vai trò như một cơ hội để các quốc gia chậm trễ như Việt Nam có thể bắt kịp, vì ta có thể bước vào các ngành công nghiệp đang nổi lên mà không bị ràng buộc hay thanh toán những công nghệ trước đó hay bị kẹt vào các công nghệ hiện có. Cơ hội tồn tại với các công nghệ mới nổi liên quan trực tiếp đến cách mạng công nghiệp 4.0.

Các nước mong muốn cạnh tranh sản xuất thành công trong tương lai cần phải đầu tư vào các nguồn lực và phát triển một chiến lược để tận dụng cơ hội trong tương lai, xây dựng hoặc chuyển đổi cơ sở sản xuất của họ. Việt Nam không phải là ngoại lệ. 

Tuy nhiên, có một số nhân tố không thể phát triển một cách độc lập tại từng quốc gia. Ví dụ, các hệ thống sản xuất kết nối toàn cầu không chỉ đòi hỏi công nghệ tinh vi mà còn các tiêu chuẩn, định mức và khả năng tương tác trong một hệ thống đa dạng. 

Các quy định và khuôn khổ pháp lý cho các công nghệ mới nổi được phát triển ở cấp độ toàn cầu so với từng nước một cách độc lập có thể mang lại hiệu quả to lớn và cải thiện việc kinh doanh dễ dàng qua việc hợp tác trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Hợp tác khu vực cũng có thể giúp Việt Nam tận dụng sức mạnh tập thể để cạnh tranh trên quy mô toàn cầu.

Mỗi quốc gia đều phải đối mặt với những thách thức mà không thể giải quyết được một cách độc lập bởi khu vực tư nhân hoặc khu vực công. Các quốc gia như Việt Nam có thể đẩy nhanh sự sẵn sàng và chuyển đổi bằng cách tận dụng khu vực tư nhân tích cực hơn trong việc giải quyết các thách thức ở cấp độ vĩ mô. 

Khó khăn nhất đối với các quốc gia đang phát triển này là khung thể chế - nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Tiếp theo là nguồn nhân lực, bởi một lực lượng lao động hấp dẫn và có tay nghề cao là đặc biệt quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng sản xuất truyền thống và tiên tiến. ■

(*)  CHUYÊN GIA TƯ VẤN CHIẾN LƯỢC MVV GROUP.

Điểm sáng:

- Khung thiết chế: Việt Nam được xếp hạng trung bình 53/100 trong đó mặc dù có những lo ngại về tham nhũng (xếp hạng 78/100) nhưng chính phủ được xem là có quyết tâm và hành động có kế hoạch và định hướng tốt (xếp hạng 43/100). Hiệu quả của việc điều hành được xếp hạng 65/100.

- Môi trường cung cầu: xếp hạng 39/100, trong đó Việt Nam là thị trường lớn (xếp hạng 29/100).

- Chỉ số thương mại (trade% GDP): xếp thứ 5.

- Đầu tư chính thức: xếp thứ 7.

- Giá trị gia tăng trong nền kinh tế: xếp thứ 9.

- Tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân: xếp thứ 19.

- Dòng tiền FDI: xếp thứ 27.

- Nguồn nhân lực cho sản xuất: xếp thứ 28.

- Mua sắm sản phẩm công nghệ của chính phủ: xếp thứ 31.

- Số điện thoại di động trên 100 dân: xếp thứ 39.

Cách mạng công nghiệp 4.0: Đảo lộn tất cả

HẢI MINH 08/03/2017 03:03 GMT+7

TTCT- Khái niệm về một cuộc cách mạng công nghiệp nữa - được đưa ra lần đầu năm 2011 ở Hội chợ công nghệ Hanover, Đức - đã trở thành câu chuyện đầy đủ hơn qua cuốn sách của người sáng lập và là giám đốc điều hành Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), giáo sư Klaus Schwab, với tựa đề đúng như thế (The Fourth Industrial Revolution).

Cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư sẽ làm đảo lộn tất cả-inform.tmforum.org
Cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư sẽ làm đảo lộn tất cả-inform.tmforum.org

Nó sẽ rất khác so với ba cuộc cách mạng đã làm thay đổi năng lực sản xuất của con người trước đó và được dự báo đảo lộn toàn bộ cuộc sống của chúng ta.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 càng thêm phức tạp bởi ở nhiều vùng trên thế giới (bao gồm Việt Nam), những cuộc cách mạng công nghiệp thứ ba và thậm chí là thứ hai còn chưa hoàn tất và các công nghệ mới có thể “nhảy cóc” qua những chuyển biến đó, gây ra sự xáo trộn chưa từng thấy với mọi xã hội.

Như Liên Hiệp Quốc chỉ ra trong báo cáo từ năm 2013, số người trên thế giới có điện thoại di động đã vượt qua số người được tiếp cận với hố xí hợp vệ sinh cơ bản!

Tác động tiềm tàng

Những chuyển biến đảo lộn như các cuộc cách mạng công nghiệp đều sẽ có người thắng - kẻ thua và như Schwab viết trong cuốn sách của ông: “Chưa bao giờ một thời đại mở ra với nhiều hứa hẹn như thế và đồng thời nhiều rủi ro như thế”. Ba mối lo lớn được ông nêu ra ở tầm nhân loại là sự bất bình đẳng, an ninh và nhu cầu giữ gìn bản sắc.

Khoảng 1% những người giàu nhất thế giới hiện sở hữu một nửa tài sản toàn cầu, theo Báo cáo về sự giàu có toàn cầu của Credit Suisse năm 2015.

Oxfam đưa ra một so sánh còn nhức nhối: 62 cá nhân hiện kiểm soát số tài sản nhiều hơn so với 3,6 tỉ người - nửa nghèo hơn của dân số thế giới. Các nghiên cứu của Richard Wilkinson và Kate Pickett trong cuốn sách về bất bình đẳng The Spirit Level (tạm dịch: Tinh thần bình đẳng) chỉ ra rằng những xã hội bất bình đẳng hơn cũng có khuynh hướng bạo lực hơn.

Một yếu tố đóng góp rất mạnh vào sự bất bình đẳng mà chúng ta đã có thể thấy ngay lập tức là các thị trường kỹ thuật số.

Ở phạm vi toàn cầu, những nền tảng kỹ thuật số thống trị, như Facebook hay Google, thường chiếm giữ phần chia quá lớn trong chiếc bánh mà công nghệ mới tạo ra, bằng các sản phẩm và dịch vụ ngôi sao của họ.

Ở phạm vi địa phương, ảnh hưởng, quyền lực và khả năng tạo lợi nhuận của những nền tảng này làm đảo lộn các cách làm cũ, chính phủ thất thu thuế, việc tạo ra một sân chơi thật sự bình đẳng khó khăn hơn (cho những ai được và không được tiếp cận công nghệ) và sự phụ thuộc vào các nền tảng số ngày càng lớn.

Tất cả điều đó được dự báo làm tăng tỉ lệ thất nghiệp trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Mọi cuộc cách mạng công nghiệp đều tạo ra những việc làm mới và tiêu diệt những công việc cũ không còn hợp thời, nhưng đang có bằng chứng cho thấy cuộc cách mạng chúng ta sắp trải qua tạo ra ít việc làm hơn so với những gì nó hủy hoại, tương ứng với các cuộc cách mạng công nghiệp khác trong quá khứ.

Tính toán của Carl Benedict Frey thuộc Chương trình Oxford Martin về công nghệ và việc làm cho thấy chỉ 0,5% lực lượng lao động Mỹ ngày nay làm ở những ngành không tồn tại trong thế kỷ trước, thấp hơn nhiều so với 8,2% việc làm trong những ngành mới vào những năm 1980 và 4,4% vào những năm 1990, tức rõ ràng tỉ lệ việc làm mới đang giảm dần và giảm nhanh.

Sự chuyển dịch việc làm còn được dự báo làm gia tăng bất bình đẳng giới. Trong quá khứ, các công việc làm mất đi do cách mạng công nghiệp tập trung ở những ngành tuyển dụng nhiều nam giới, như chế tạo và xây dựng.

Còn ngày nay, các nghề bị đe dọa nhất là trung tâm phục vụ khách hàng (gọi điện và nhận cuộc gọi), bán lẻ, hành chính..., những nghề tuyển dụng nhiều lao động nữ.

Gia tăng bất bình đẳng cũng sẽ gây ra quan ngại về an ninh cho cả người dân lẫn nhà nước. Báo cáo rủi ro toàn cầu 2016 của WEF cho thấy một thế giới siêu kết nối cũng có thể trở nên phân mảng hơn, chia rẽ hơn và nhiều bất ổn hơn.

Không gian chiến lược của xung đột cũng đã thay đổi. Thế giới kỹ thuật số tạo ra những chiến trường mới mà các nhà nước kiểu cũ chưa thể tìm ra cách đối phó hiệu quả.

“Trong khi bất kỳ cuộc xung đột tương lai nào cũng sẽ còn nhiều yếu tố liên quan tới thế giới thực - Schwab viết - Khả năng cao là sẽ luôn có một mặt trận kỹ thuật số vì không ai cưỡng lại được sự quyến rũ của việc tấn công, làm gián đoạn và hủy hoại nền tảng công nghệ của đối phương, như một cách nhanh nhất để chiến thắng”.

Công nghệ của cuộc cách mạng mới cũng tạo ra những năng lực chiến tranh mới, không chỉ cho các nhân tố nhà nước mà cả phi nhà nước, bao gồm máy bay không người lái, vũ khí robot, vật liệu nano, vũ khí hóa - sinh học và cả những loại vũ khí thần kinh tác động trực tiếp lên não bộ con người.

“Câu hỏi không phải là các nhân tố phi nhà nước có đủ năng lực để tham gia các kiểu chiến tranh như thế không, mà chỉ là khi nào và ai - James Giordano của Trung tâm y khoa Đại học Georgetown (Mỹ), bình luận - Bộ não con người sẽ là chiến trường tiếp theo”.

Khi công nghệ có thể can thiệp sâu như thế - Ray Kurtzweil, nhà tương lai học của Google, thậm chí tiên đoán rằng chỉ năm 2030 thôi, tất cả chúng ta sẽ trở thành “cyborg”, những thực thể nửa người nửa máy, bởi lúc đó công nghệ nano đã đủ tiến bộ để kết nối não bộ với toàn bộ Internet - thì vấn đề bản sắc của mỗi dân tộc và cả từng cá nhân, tức khái niệm “con người”, cũng sẽ bắt đầu bị đặt dấu hỏi.

Cuộc cách mạng đó sẽ không chỉ thay đổi những gì chúng ta làm, mà cả việc chúng ta là ai: cảm nhận của chúng ta về sự riêng tư, về quyền sở hữu và tư hữu, về các hình mẫu tiêu dùng, về thời gian phân bổ công việc - nghỉ ngơi, về sự nghiệp, các kỹ năng, cách chúng ta gặp gỡ mọi người, nuôi dưỡng các mối quan hệ và vô tận những điều khác đã định nghĩa nên cái tôi của chúng ta nữa.

Vẫn đủ để lạc quan?

Điều quan trọng nhất trong cơn lốc sáng tạo này là chúng ta muốn bảo tồn những điều gì, đó là câu hỏi then chốt” - nhà khoa học và triết gia người Chile Humberto Maturana nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2015.

Những gì Maturana nói thật ra đã được các nhà khoa học triển khai rồi. Một ví dụ rõ ràng của nguyên tắc “giữ lại những gì” là việc thiết kế và quản trị các thuật toán, nguyên liệu cơ bản cho cuộc cách mạng công nghiệp mới.

Năm 2013, Đại học Y Bệnh viện St. George’s ở Anh đã sử dụng mô hình máy tính để lọc đơn xin nhập học của sinh viên.

Thuật toán dựa trên cơ sở các hình mẫu tuyển sinh trước đó tỏ ra phân biệt giới tính và chủng tộc có hệ thống: nó từ chối những ứng viên là nữ hoặc có tên không nghe giống người châu Âu!

Thuật toán này chỉ phản ánh những hình mẫu tuyển sinh đã tồn tại trước đó và không được cấy ghép những hành vi mà con người coi là sai trái. Như thế, sự loại trừ, thiên vị và bất bình đẳng không còn là những danh từ trừu tượng nữa, mà là những “con bọ” (bug) hay lỗi cần phải sửa trong hệ thống trí tuệ nhân tạo mới, vốn đã có thể nhận ra và làm những chuyện tưởng chừng chỉ thuộc về con người trước kia.

“Thực tế đảo lộn đang diễn ra... không có nghĩa là chúng ta bất lực khi đối mặt với nó - Schwab viết - Chúng ta phải thiết lập một bộ giá trị chung nền tảng lèo lái những lựa chọn chính sách... để cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là một cơ hội cho tất cả”.

Michelle Arevalo Carpenter, CEO và đồng sáng lập phòng thí nghiệm sáng tạo Impaqto, tin rằng các giá trị chung đó sẽ là nhân quyền - một giá trị phổ quát và nhân bản - các doanh nghiệp và nhà nước cần tư duy lại về thành công, lợi nhuận và quyền lực.

Giống như các cuộc cách mạng trước đó, cách mạng công nghiệp 4.0 có triển vọng nâng mức thu nhập và chất lượng sống toàn cầu lên một bước nữa.

Gọi một chiếc taxi, đặt một chuyến bay, mua một sản phẩm, thanh toán, nghe nhạc, xem phim, chơi trò chơi điện tử chưa bao giờ dễ dàng như bây giờ.

Đó là về phía người tiêu dùng. Còn về phía cung, công nghệ mới cũng đang tạo ra những điều kỳ diệu về hiệu suất và năng suất khi chi phí vận tải và thông tin liên lạc giảm xuống, các chuỗi cung ứng và hậu cần toàn cầu có lẽ chưa bao giờ hiệu quả như hiện nay và những thị trường chưa bao giờ dễ tiếp cận như thế.

Một khuynh hướng then chốt khác với các nền tảng sản xuất - kinh doanh dựa trên công nghệ là sự kết hợp cả hai phía cung và cầu làm một khiến những cấu trúc truyền thống đảo lộn, bao gồm nền kinh tế chia sẻ và “theo yêu cầu” còn non trẻ nhưng đang phát triển với tốc độ chóng mặt.■

Martin Nowak, giáo sư toán và sinh vật ở Đại học Harvard (Mỹ), nói hợp tác là “đặc điểm tự nhiên lớn nhất của con người” và trước cuộc cách mạng mới, chúng ta phải có trách nhiệm tập thể về những gì đang diễn ra, nâng cao nhận thức và cấu trúc lại những hệ thống kinh tế - xã hội và chính trị của chúng ta để đón nhận cuộc cách mạng đó tốt nhất.

Cách mạng công nghiệp 4.0 và nguy cơ “thua trắng" của đại học truyền thống

ĐÀM QUANG MINH - PHẠM HIỆP 07/09/2016 20:09 GMT+7

TTCT - Sự xuất hiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang ngày càng đe dọa “tính trung tâm” của các trường đại học trong hai hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học.

 

Trong bối cảnh đó, các trường đại học nếu không muốn bị “thua trắng” ngay trên sân nhà truyền thống thì cần phải tìm cách đổi mới chính mình.

Cuộc “lấn sân” mạnh mẽ của robot và đại học doanh nghiệp

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với sự phát triển của hệ thống thực ảo (Cyber Physical System - CPS) đã và đang tạo ra nhiều loại robot có thể chiếm mất nhiều việc làm vốn chỉ dành cho con người.

Năm ngoái, McDonald's công bố sẽ xây mới thêm 25.000 nhà hàng hoạt động hầu như bằng robot. Thay vì quy mô 10-20 nhân viên một nhà hàng truyền thống như trước kia, nhà hàng theo khái niệm mới này sẽ chỉ cần 2-3 người để quản lý. Tháng 5-2016, Foxconn cũng tuyên bố sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay thế bằng robot.

Tháng 11-2015, Ngân hàng Anh Quốc đưa ra một dự báo còn đáng lo ngại hơn: sẽ có khoảng 95 triệu lao động truyền thống bị mất việc trong vòng 10-20 năm tới tại riêng Mỹ và Anh - tương đương 50% lực lượng lao động tại hai nước này.

Giới nghiên cứu cũng đã chỉ ra CPS sẽ không chỉ đe dọa việc làm của công nhân trình độ thấp, mà ngay cả những người có bằng cấp sau trung học (cao đẳng, đại học trở lên) cũng có thể là đối tượng bị ảnh hưởng.

Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến thị trường lao động thì giới đại học, nơi có chức năng truyền thống là cung cấp nguồn nhân lực, vẫn đào tạo theo cách đã làm trong hàng chục năm qua. Sinh viên thậm chí không biết các kiến thức, kỹ năng đang được dạy trong nhà trường hiện nay có thể hoàn toàn không hữu dụng hoặc đang dễ dàng bị robot thay thế trong tương lai gần.

Một xu hướng khác có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động đào tạo của trường đại học, vốn xuất hiện trước nhưng lại đang có xu hướng tăng tốc cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đó là các doanh nghiệp tư nhân cũng đang có đơn vị giáo dục của riêng mình, ví dụ như BBC Academy hay Microsoft Virtual Academy...

Sự ra đời của các tổ chức này trước tiên là nhằm mục tiêu đào tạo nội bộ cho nhu cầu của doanh nghiệp, nhưng hiện nay phần lớn đã mở rộng đối tượng đào tạo học viên ngoài, cấp chứng chỉ và cạnh tranh trực tiếp với đại học truyền thống.

 

 Nhà khoa học hay những kẻ làm thuê?

Nguồn lực tài chính dồi dào cũng đang là lợi thế lớn của khu vực tư nhân so với các trường đại học trong hoạt động nghiên cứu.

Theo thống kê của Viện Nghiên cứu công nghiệp (Industrial Research Institute), trong năm 2016, tổng kinh phí đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) tại khu vực công nghiệp ở Mỹ là 357,4 tỉ USD, gấp 5 lần con số tương ứng (72,5) tại khu vực đại học.

Không chỉ thua về tài lực, nhân lực cũng đang dần trở thành điểm yếu của giới đại học khi mà các kỹ sư, nhà khoa học xuất sắc nhất đang dần rời bỏ các khu campus đại học để chuyển tới các phòng thí nghiệm tại các doanh nghiệp hàng đầu.

Nguyên nhân chủ yếu là do mức lương khá chênh lệch giữa hai lĩnh vực. Trong một bài bình luận viết trên Linkedin, ông Vivek Wadhwa, một chuyên gia đang làm việc cho Trung tâm quản trị doanh nghiệp tại Đại học Standford, đã phải thành thật thừa nhận một nghịch lý hiện nay đối với giới đại học hàn lâm: đại học ngày nay buộc phải đứng trước lựa chọn hoặc là làm việc cho doanh nghiệp, hoặc là sẽ bị họ “cướp” mất những tài năng xuất sắc nhất của mình.

Như vậy, với nguồn tài chính ít hơn, nhân lực kém chất lượng hơn, giới đại học có vẻ đang phải “đi làm thuê” cho các doanh nghiệp công nghiệp.

Hướng tới mô hình đại học mới - Lựa chọn sống còn

Cách tốt nhất để giới đại học không bị thua ngay trên sân nhà của mình là kết hợp với chính đối thủ tạo ra một mô hình đại học mới: đại học doanh nghiệp (entrepreneurial university).

Mô hình này có thể được diễn đạt bằng cách thay đổi cách đào tạo từ chỗ “dạy những gì giới học thuật sẵn có” sang cách “dạy những gì thị trường cần”, hoặc thậm chí xa hơn là “dạy những gì thị trường sẽ cần”.

Theo mô hình mới này, trường đại học và doanh nghiệp cũng xích lại gần nhau hơn về mặt địa lý khi cùng tọa lạc trong các khu công nghệ cao hay công viên khoa học (science park hay technopolis) để chia sẻ các nguồn lực chung: cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực, quan trọng hơn là rút ngắn thời gian chuyển giao từ tri thức vào thực tiễn cuộc sống.

Mặc dù được nhìn nhận và định hình từ khá lâu nhưng mô hình đại học doanh nghiệp mới chỉ được áp dụng ở phạm vi nhỏ các đại học và nền kinh tế phát triển. Điều này có nguyên nhân trước nhất là bởi sự nghi ngại của chính bản thân giới đại học về việc đánh mất bản sắc truyền thống hay thậm chí là “doanh nghiệp hóa” đại học.

Trong khi thực tế “đại học doanh nghiệp” chỉ làm cho các giá trị của đại học được mở rộng hơn, đa dạng hơn để phụng sự tốt hơn yêu cầu của cuộc sống.

Một lý do khác không kém phần quan trọng là trong suốt một thời gian dài, đại học hoàn toàn “độc quyền” trong hoạt động đào tạo cũng như nghiên cứu; và ngoại trừ một số trường hợp cá biệt, hầu như không chịu sức ép hoặc cạnh tranh để làm hai việc này tốt hơn.

Tuy vậy, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang ập tới như đã phân tích ở trên, đã đến lúc giới đại học buộc phải lựa chọn thay đổi hay sẽ thành “kẻ bên lề” trên chính “sân nhà” truyền thống của mình.

Thung lũng Silicon và mô hình Technopolis

Thung lũng Silicon có thể xem như là mô hình Technopolis đầu tiên thành công trên thế giới, ra đời vào những năm 1950. Đó là thời điểm quy mô đại học ở Mỹ tăng trưởng đột biến do có một số lượng lớn quân nhân giải ngũ, được hỗ trợ học bổng của nhà nước quay lại trường đại học.

Nhận thấy nhu cầu việc làm từ bộ phận sinh viên đang ngày một tăng nhanh và có trình độ cao này, cộng với các ý tưởng thương mại hóa các kết quả khoa học từ phía các đồng nghiệp ngày càng nhiều, TS Frederick Terman, trưởng khoa kỹ thuật thời đó, đã đề xuất ban giám hiệu Đại học Standford ban hành chính sách dành một phần diện tích trong khuôn viên trường cho các nhóm có ý tưởng khởi nghiệp (ban đầu chủ yếu là từ giáo sư và sinh viên - quân nhân trong trường).

Nhờ chính sách này, một loạt công ty công nghệ đã được “ươm mầm” và phát triển, một số ngày nay đã trở thành những tập đoàn công nghệ nổi tiếng như HP hay General Electric. Chính sách này cũng chính là “bà đỡ” cho sự ra đời của Công viên công nghiệp Standford (Standford Industrial Park) - tiền thân của Thung lũng Silicon ngày nay.

Từ trường hợp thành công đầu tiên này, mô hình Technopolis tiếp tục được nhân rộng tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có thể kể đến những ví dụ thành công nhất như Công viên khoa học và công nghiệp Hsinchu, Đài Loan (thành lập năm 1980), Công viên khoa học Cambridge, Anh (thành lập năm 1970) hay Thung lũng Wadi, Israel (thành lập năm 1961).■

Bạn đang đọc trong chuyên đề "CÔNG NGHIỆP 4.0: ĐẢO LỘN TẤT THẢY"