Streaming - cuộc chiến còn dài

Tuổi Trẻ Cuối Tuần

TTCT - Cuộc chiến giữa các nền tảng streaming với nhau, và giữa streaming với các hình thức xem phim ảnh truyền thống.

Cần xử hình sự các YouTuber, TikToker kiếm tiền bất chấp

BÔNG MAI 12/04/2025 09:34 GMT+7

Nếu không được kiểm soát, sự phát triển nóng của các KOL, KOC, reviewer hay livestreamer trên mạng xã hội sẽ kéo theo những mặt trái đáng lo ngại.

Cần xử hình sự các YouTuber, TikToker kiếm tiền bất chấp - Ảnh 1.

Trang TikTok Dưỡng Dướng Dường Phong Thủy - Ảnh chụp lại màn hình

Theo báo cáo xu hướng tìm kiếm vừa công bố đầu tháng 4-2025 của trình duyệt Cốc Cốc, hàng loạt từ khóa liên quan đến bê bối quảng cáo sai sự thật và thiếu minh bạch trong từ thiện tăng vọt trong ba tháng đầu năm 2025 tại Việt Nam.

Xói mòn niềm tin xã hội

Sau vụ việc quảng cáo sai sự thật về sản phẩm "kẹo rau củ Kera" bị xử phạt vào ngày 20-3, lượng tìm kiếm về "Hằng Du Mục" tăng 270%, "Nguyễn Thúc Thùy Tiên" tăng 27%.

Hay trong vụ lùm xùm liên quan đến hoạt động từ thiện của Phạm Thoại, từ khóa "Phạm Thoại" tăng 153%, và "mẹ bé Bắp" - người liên quan trực tiếp - tăng tới 13.100%. Những con số này phản ánh rõ sự chuyển biến trong thái độ của công chúng: từ ngưỡng mộ sang hoài nghi, từ tin tưởng sang yêu cầu minh bạch và trách nhiệm xã hội.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, bà Vũ Kiều Trang, trưởng phòng truyền thông Cốc Cốc, cho rằng sức ảnh hưởng ngày càng lớn của các KOL, KOC, reviewer hay livestreamer trên mạng xã hội trong việc định hướng hành vi tiêu dùng. Khi hoạt động một cách có trách nhiệm, dựa trên chuyên môn và trải nghiệm thật, họ chính là cầu nối hiệu quả giữa thương hiệu và người tiêu dùng.

Thông tin được chia sẻ khách quan, trung thực không chỉ giúp người dùng đưa ra lựa chọn sáng suốt, mà còn góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, xây dựng niềm tin thị trường và lan tỏa niềm tự hào với hàng Việt.

Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát, sự phát triển nóng này cũng kéo theo mặt trái đáng lo ngại. Đó là khi nội dung thiếu trách nhiệm hoặc bị dẫn dắt bởi lợi ích ngắn hạn, hệ quả là sự lẫn lộn giữa thật - giả trong một ma trận thông tin ngày càng khó kiểm soát.

"Điều này không chỉ ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu, mà còn đẩy người tiêu dùng vào trạng thái hoài nghi, mất niềm tin - thứ vốn rất khó gây dựng và dễ dàng đánh mất", bà Trang nhận xét.

Theo nhiều chuyên gia truyền thông, trong bối cảnh thông tin mở như hiện nay, bất kỳ ai cũng có thể trở thành người phát ngôn của một thương hiệu.

Việc một số cá nhân tự xưng là chuyên gia, sử dụng các thủ thuật công nghệ hoặc chiêu trò để xây dựng uy tín ảo, sau đó quảng bá sản phẩm thiếu khách quan, thiếu chính xác đang bào mòn đáng kể niềm tin của người tiêu dùng.

Khi các cá nhân lợi dụng danh xưng chuyên gia, hoạt động không qua kiểm duyệt hay ràng buộc pháp lý nào, nguy cơ người tiêu dùng rơi vào tình cảnh tiền mất tật mang là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

Có những trường hợp khi sự thật được phanh phui thì hậu quả đã không còn đơn thuần là một cú click nhầm. Hệ lụy lúc này không chỉ dừng ở một vài lời "chém gió" vô hại mà đã ảnh hưởng thực sự đến túi tiền, niềm tin và thậm chí là cả sức khỏe, sự an toàn của người tiêu dùng.

Cần có quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp

Nhận xét về tình trạng loạn KOL, KOC hiện nay, bà Hoàng Hường - CEO Công ty Unikon - cho rằng trong nhiều năm qua, các chế tài và luật đã không theo kịp trong công tác quản lý nhóm người mới này như một nghề nghiệp.

"Đây dường như vẫn là định nghĩa một "nghề tự do", ai ai cũng bất chấp các chuẩn mực để trở thành "nhà sáng tạo nội dung", để câu view, để có người theo dõi và kiếm tiền từ việc đó", bà Hường cho biết.

Cụ thể, từ việc là người ảnh hưởng đi quảng cáo hỗ trợ việc bán hàng, tới khi định hình được cộng đồng thì nhiều cá nhân có thể tự biến mình thành nhà sản xuất, chủ doanh nghiệp để sản xuất, cung ứng và phân phối sản phẩm từ A-Z. Từ đây tạo nên "quyền lực" vô tận cho nhóm người ảnh hưởng này.

Về lâu dài tạo nên sự mất cân bằng và cạnh tranh thiếu lành mạnh cho thị trường, kèm theo đó là tiêu chuẩn chất lượng cũng trở thành những khái niệm mơ hồ. Trong khi đó người mua không được bảo vệ quyền lợi, cũng không có những kỹ năng và hiểu biết cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình.

"Tất cả đánh đổi bằng niềm tin, mua hàng bằng niềm tin, lắng nghe và bị chi phối các cảm xúc và không có gì đảm bảo hay bảo vệ họ. Bởi không có luật pháp quy định rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm của những người hành nghề "sáng tạo nội dung" trên mạng xã hội", bà Hường chia sẻ.

Đồng quan điểm, bà Trang cũng cho rằng: "Đã đến lúc cần thiết lập một bộ quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp dành riêng cho người sáng tạo nội dung thương mại, tương tự như phóng viên báo chí". Cơ quan chức năng có thể xem xét việc cấp chứng chỉ hành nghề, kết hợp ứng dụng công nghệ để giám sát và đánh giá định kỳ hoạt động của nhóm người nêu trên.

"Đây là bước đi cần thiết để đảm bảo sự công bằng về giá trị đóng góp và lợi ích chia sẻ giữa người tạo nội dung, thương hiệu và người tiêu dùng, đồng thời góp phần xây dựng một môi trường mạng minh bạch và an toàn hơn", bà Trang đề xuất.

Phạt tiền thôi chưa đủ, cần nghiêm phạt hình sự

Nhiều chuyên gia cho rằng cơ chế xử phạt cần đủ mạnh để răn đe và ngăn chặn những hành vi cố ý gây hại cho cộng đồng. Việc xử phạt không chỉ dừng ở việc gỡ video hay phạt hành chính. Những trường hợp cố ý quảng cáo, lan truyền thông tin sai lệch có thể cần được cơ quan chức năng xử lý theo hướng vi phạm pháp luật, chứ không còn là lỗi truyền thông đơn thuần.

Chia sẻ với Tuổi Trẻ, luật sư Trần Minh Hùng (Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng việc người nổi tiếng, có ảnh hưởng trên mạng quảng cáo sai sự thật về sản phẩm là hành vi rất nguy hiểm.

Nhiều trường hợp cá nhân không thực sự mắc bệnh, không sử dụng sản phẩm, nhưng lại giả vờ như đã khỏi bệnh nhờ sản phẩm đó để thu hút sự tin tưởng từ người hâm mộ. Lợi dụng tâm lý tin tưởng thần tượng của công chúng, các nhãn hàng đã thuê họ để quảng bá đẩy mạnh doanh số.

kiếm tiền bất chấp - Ảnh 2.

Hoạt động bán hàng online của người nổi tiếng hiện chưa chịu nhiều kiểm duyệt hay ràng buộc pháp lý - Ảnh: T.T.

Luật sư Hùng khuyến cáo người tiêu dùng nên cẩn trọng, chỉ mua sản phẩm từ các nguồn uy tín và không nên mù quáng tin theo người nổi tiếng để tránh "tiền mất tật mang".

Luật sư Đậu Đức Ninh (Đoàn luật sư tỉnh Bình Dương) cho biết việc người có ảnh hưởng quảng cáo thổi phồng và sai lệch thông tin đang ngày càng phổ biến, gây tổn hại nghiêm trọng đến niềm tin của người tiêu dùng. Ông cho rằng việc xử phạt hành chính hiện nay chưa đủ sức răn đe, vì mức phạt quá nhẹ so với lợi nhuận mà họ thu được.

Do đó cần xem xét xử lý hình sự những trường hợp lợi dụng niềm tin để quảng cáo sai lệch, trục lợi bất chính và chiếm đoạt tài sản của người khác.

Cần có luật riêng cho người ảnh hưởng mạng xã hội

Một số nước như Trung Quốc từ nhiều năm trước đã ban hành nhiều quy định chặt chẽ với nhóm người ảnh hưởng trên mạng. Cơ quan chức năng phối hợp các nền tảng phát sóng xác thực danh tính thật; xây dựng bộ hướng dẫn, quy chuẩn đạo đức và hệ thống chấm điểm xếp hạng, xử phạt dựa trên các quy chuẩn này.

Trung Quốc cũng xây dựng danh sách những nội dung cấm phát tán và cơ chế kiểm duyệt nội dung nghiêm ngặt. Song song đó là các quy định về quảng cáo, như đăng bài có yếu tố quảng cáo, giới thiệu bắt buộc phải gắn nhãn rõ ràng; quy định về phạm vi quảng cáo hay không đưa ra thông tin gây hiểu nhầm...

Đặc biệt cơ quan chức năng yêu cầu về chứng chỉ, bằng cấp phù hợp với một số KOL trong các lĩnh vực chuyên môn như y tế, giáo dục, tài chính...

Bà Hoàng Hường, CEO Công ty Unikon, cho biết Luật An ninh mạng của Việt Nam có quy định về người dùng và phát ngôn trên mạng xã hội nói chung nhưng chưa rõ ràng về quy định và chế tài cho nhóm người có thể có phạm vi ảnh hưởng rộng như nhóm KOL.

Ngoài ra các quy định xử phạt còn cần quy định rõ trách nhiệm liên đới của các nền tảng phát sóng hoặc các nền tảng mạng xã hội, để tạo ra những cơ chế quyết liệt hơn trong việc gợi ý các nội dung ảnh hưởng tới người dùng và khách hàng của nền tảng.

"Sau gần 20 năm phát triển, mạng xã hội đã không còn là một không gian "ảo" mà chính là đời sống thật. Nó cần những quy định nghiêm ngặt về quản lý thông tin và nghề nghiệp, các tiêu chuẩn đạo đức và hướng dẫn sử dụng một cách rõ ràng cho các bên liên quan", bà Hường kiến nghị.

Hàng loạt TikToker, YouTuber sa vào vòng lao lý

Hoạt động trên mạng xã hội giúp nhiều người trở nên nổi tiếng, kiếm bộn tiền, có cả fan hâm mộ. Tuy nhiên trong số đó lại có những người sẩy chân, rơi vào vòng lao lý.

Mới giữa tuần này, Mai Văn Dưỡng (Quảng Nam) - một TikToker có lượng theo dõi cao, sở hữu tài khoản Dưỡng Dướng Dường - vừa bị Công an tỉnh Quảng Nam khởi tố, bắt giam.

Thực tế việc chửi bới người khác, tạo ra các thông tin thị phi cũng là một trong những con đường nhanh chóng khiến TikToker này được nhiều người biết đến.

Tận dụng độ lan tỏa, anh này cũng tranh thủ bán các vật phẩm phong thủy, nụ trầm hương, bột xông nhà... Trong nhóm bị vướng vào vòng lao lý, có những người không chỉ dừng ở phát ngôn sai phạm, mà còn do thực hiện nhiều hành vi nguy hại, lừa đảo.

Trong những năm gần đây, nhiều YouTuber cũng bị bắt về hàng loạt tội danh khác nhau. Nổi danh trên mạng xã hội, tạo dựng vẻ ngoài uy tín kèm theo sự giàu có, nhưng nhiều người cũng bị sa vào lưới pháp luật, vi phạm trong quá trình kinh doanh, quảng cáo hay bán hàng dỏm, giả, không rõ xuất xứ.

Hồi cuối năm vừa qua, Cục Nghiệp vụ quản lý thị trường đã tạm giữ kho hàng chứa hơn 10.000 chai nước hoa không rõ nguồn gốc xuất xứ tại Hà Nội. Đây là kho được TikToker Phan Thủy Tiên (hơn 4 triệu lượt tài khoản theo dõi) năng nổ bán hàng, quảng cáo rầm rộ.

Những người có ảnh hưởng phải có chứng chỉ hành nghề

Đã đến lúc phải quản lý chặt chẽ hoạt động của người có ảnh hưởng (KOL/KOC) trên mạng xã hội nhằm chấm dứt tình trạng "loạn cào cào" hiện nay.

1. Cần cập nhật luật và xác định rõ đối tượng

Luật Quảng cáo cần được cập nhật, bổ sung định nghĩa pháp lý cho nhóm "người chứng thực" - bao gồm KOL, KOC, influencer ở mọi cấp độ. Việc này giúp phân biệt họ với người dùng thông thường để áp dụng quy định quản lý phù hợp.

Những cá nhân có lượng theo dõi từ 50.000 người trở lên nên được yêu cầu đăng ký với cơ quan chức năng, tương tự như việc đăng ký website kinh doanh với Bộ Công Thương.

2. Chứng chỉ hành nghề và quy tắc đạo đức

KOL/KOC cần tham gia khóa đào tạo về đạo đức truyền thông, pháp luật quảng cáo và được cấp chứng chỉ hành nghề. Đây là giải pháp để hạn chế tình trạng "tự phong" và nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp.

Ngoài ra cần có bộ quy tắc đạo đức bắt buộc, nhấn mạnh đến tính minh bạch và trung thực trong quảng cáo, nhất là với các sản phẩm liên quan đến sức khỏe. Các KOL/KOC phải kiểm chứng thông tin, nguồn gốc sản phẩm trước khi giới thiệu.

3. Minh bạch nội dung quảng cáo

Mọi nội dung quảng cáo cần được gắn hashtag nhận diện như #QuangCao, #TaiTro hoặc nhãn hiển thị trực tiếp trên video để người dùng nhận biết dễ dàng. Hợp đồng quảng cáo cũng cần được công khai theo yêu cầu pháp lý.

4. Chế tài đủ mạnh để răn đe

Mức phạt hiện hành (20 - 100 triệu đồng theo nghị định 119/2020) chưa đủ sức răn đe so với thu nhập thực tế của KOL/KOC. Do đó cần tăng mức phạt lên gấp 10 - 20 lần, thậm chí có thể xử lý hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng.

Ngoài phạt tiền, biện pháp bổ sung như cấm hoạt động, xóa nội dung trên tất cả nền tảng, công khai danh sách vi phạm... cũng được đề xuất.

5. Tăng cường giám sát, phối hợp nền tảng

Hoạt động giám sát cần kết hợp giữa công nghệ (AI để phát hiện quảng cáo không công khai), phối hợp với các nền tảng như TikTok, YouTube, Facebook và phản ánh từ người dùng. Đồng thời cần có kênh tiếp nhận tố giác và cơ chế xử lý nhanh.

VÕ QUỐC HƯNG (giám đốc tăng trưởng Công ty truyền thông Tonkin)

Thăm dò ý kiến

Sau những ồn ào gần đây liên quan một số người nổi tiếng livestream bán hàng, bạn nghĩ gì về các hoạt động livestream của người nổi tiếng:

Bạn có thể chọn 1 mục. Bình chọn của bạn sẽ được công khai.

Cần xử hình sự các YouTuber, TikToker kiếm tiền bất chấp - Ảnh 3.Khi YouTuber, TikToker đua kiếm tiền, bất chấp đúng sai

Cùng với sự bùng nổ mạng xã hội tại Việt Nam, trào lưu người người, nhà nhà, doanh nghiệp đua xây kênh TikTok, YouTube để mong mau nổi tiếng, hòng kiếm về những hợp đồng béo bở... thậm chí bất chấp đúng sai.

Netflix và nỗi bất công dành cho credits

TỊNH ANH 04/07/2020 02:07 GMT+7

TTCT - Không vội về ngay mà ở lại xem credits (danh đề) là cách để thể hiện sự tôn trọng đối với những người đóng góp cho bộ phim. Đó là chuyện xem phim ngoài rạp, còn khi ngồi nhà xem phim trực tuyến (streaming), chuyện xem credits tưởng dễ mà lại bị chính nền tảng cung cấp dịch vụ làm khó.

Không vội về ngay mà ở lại xem credits (danh đề) là cách để thể hiện sự tôn trọng đối với những người đóng góp cho bộ phim. Đó là chuyện xem phim ngoài rạp, còn khi ngồi nhà xem phim trực tuyến (streaming), chuyện xem credits tưởng dễ mà lại bị chính nền tảng cung cấp dịch vụ làm khó.

Trên mạng thỉnh thoảng có người phản ứng chuyện rạp mở đèn khi còn credits để giục khán giả về nhanh cho, để họ còn dọn dẹp chuẩn bị cho suất chiếu kế tiếp. Các dịch vụ streaming cũng có kiểu “chơi không đẹp” như vậy với credits, nơi vinh danh tất cả những người đã cùng làm nên bộ phim dù với vai trò nhỏ nhất.

¢nh:
Xem hết credit là cách mà các tín đồ điện ảnh thể hiện sự tôn trọng lớn đối với những người đóng góp làm nên một bộ phim. 

Với Netflix, khi hết một tập, góc phải màn hình sẽ hiện ra 2 nút: Watch credits và Next episode, kèm theo thông báo đếm ngược trong vòng 5 giây. Nghĩa là ai muốn xem credits thì phải nhanh tay mà bấm cho kịp. “Chuyện này giống như quý vị vừa nuốt xong muỗng cuối cùng thì tay bồi lao đến, vội vã dọn chén dĩa rồi thò menu ra, bắt quý vị chọn ngay một set đồ ăn mới” - cây bút Daniel Pemberton viết trên The Guardian (Anh) ngày 15-6.

Theo Pemberton, không chỉ Netflix mà người dùng đa số nền tảng streaming hiện nay như Amazon và BBC iPlayer đều gặp chuyện khó chịu như vậy. Pemberton không phải là tiếng nói lẻ loi than phiền về sự bất công mà các nền tảng streaming dành cho credits.

Mạng xã hội Reddit có đến gần chục chủ đề xoay quanh chuyện này, từ yêu cầu Netflix “ngưng cắt bỏ phần credits” đến nhờ sự trợ giúp kiểu “muốn Netflix chiếu credits thì phải làm sao?”.

Một người tên Mark Boszko còn tổ chức hẳn chiến dịch thu thập chữ ký trực tuyến trên trang change.org, đòi Netflix phải để người dùng xem credits mà không phải thao tác gì thêm. Boszko cho rằng việc bày ra nội dung mới, thúc giục người dùng xem tiếp trong khi lẽ ra phải hiện credits giống như “hét vào mặt khán giả rằng những người trong credits kia chả có gì quan trọng, hãy đi mà xem thứ khác nhanh đi này”.

Ngồi nán lại trong rạp để xem hết credit phim là hạnh phúc đặc biệt của các tín đồ điện ảnh thực thụ.

Boszko đề xuất chỉ cần Netflix có chỗ cho người dùng đánh dấu chọn được xem toàn bộ credits khi một bộ phim hay tập trong series dài kỳ kết thúc, thay vì buộc họ cứ phải bấm “xem credits” cho mỗi lần xem. Tháng 12-2019, Raphael Matthew Bob-Waksberg, tác giả series BoJack Horseman công khai chỉ trích Netflix, nơi chiếu bộ phim của ông, vì “ngược đãi” credits.

Tại thời điểm đó, cứ hết một tập thì Netflix sẽ hiện credits ở một cửa sổ nhỏ, chồng lên màn hình chính lúc này là cảnh của một phim khác, mời gọi người xem. Theo Bob-Waksberg, hàng trăm người làm việc không mệt mỏi đâu phải để tên họ được hiện trên một khung nhỏ xíu mà còn bị cắt ngang để chiếu trailer của phim khác.

Ta đã rõ cái lý của các nền tảng streaming khi không muốn người dùng xem credits: tối ưu hóa mọi thứ để đảm bảo người dùng vừa dứt tập này là có ngay tập khác. Tưởng là tiện cho người dùng, nhưng làm vậy là thiếu tôn trọng cả người xem lẫn những người được vinh danh trong phần danh đề.

Credits không chỉ là dòng chữ trắng chạy trên màn hình đen. Nó chứa đựng nhiều thông tin lý thú như quy mô của bộ phim, bối cảnh quay, tên các ca khúc... Với cơ chế hiện tại, người xem phải chạy đua với tính năng tự động phát tập tiếp theo của Netflix nếu không muốn bị bỏ lỡ các thông tin này.

Ảnh:
Ảnh: Credit chứa rất nhiều thông tin quan trọng và thú vị, giúp ta nghiền ngẫm và ngấm tất cả những gì vừa xem.

Theo Pemberton, credits có thể là thời khắc quan trọng để ta suy nghĩ, đánh giá, nghiền ngẫm để “ngấm” tất cả những gì vừa xem, để thấy có bao nhiêu người (không chỉ người nổi tiếng) đã làm việc từ con số 0 để tạo nên bộ phim, hoặc để nghe đoạn nhạc kết thúc phim, một phần được đầu tư kỹ lưỡng chứ không phải chọn đại làm đùa.

“Tôi không phiền nếu ai đó không hứng thú với credits, nhưng sẽ không hài lòng khi tại thời điểm lẽ ra bạn phải suy tưởng về hành trình vừa có (với bộ phim) thì lại bị bắt phải tìm remote hoặc bị ‘đẩy’ sang hành trình khác chỉ trong vài giây” - Pemberton viết.

Pemberton kỳ vọng những lời kêu gọi như của Mark Boszko có thể mang đến sự thay đổi. “Nếu không thì khoảnh khắc ta đắm chìm trong cảm xúc và suy ngẫm về bộ phim sẽ mất đi mãi mãi vì các công ty chỉ quan tâm đến việc tối đa hóa sự xuất hiện của họ trong nhãn cầu thay vì tim ta”.■

Netflix - Kẻ phá bĩnh trong làng làm phim

NGUYỄN VŨ 02/07/2020 14:07 GMT+7

TTCT - Ngành công nghiệp điện ảnh Mỹ đầy những bố già quyền lực, những đạo diễn khét tiếng, những chủ hãng phim uy lực, những rạp chiếu phim nguy nga... đang được định nghĩa lại bởi một kẻ phá bĩnh, thay đổi hoàn toàn cuộc chơi.

Ảnh: citizenbest.com
Ảnh: citizenbest.com

Năm 1997, người ta biết đến Netflix như một công ty cho thuê đĩa DVD qua đường bưu điện. Chỉ sau một thập niên, công ty bé nhỏ này chuyển mình thành một địa chỉ trực tuyến, nơi thiên hạ trên toàn cầu có thể thưởng thức kho phim khổng lồ.

Song sức công phá của Netflix thật sự bộc lộ khi họ đẩy mạnh tham vọng tự làm phim để chiếu, không phụ thuộc vào các hãng phim nữa.

Cú chơi tất tay khuynh đảo ngành công nghiệp điện ảnh

Năm 2019 là năm “đổi đời” trong nghề làm phim đối với Netflix (trước đó họ cũng bỏ tiền làm phim nhưng chưa nhiều): họ sản xuất và phát hành tổng cộng 60 phim truyện. Để hình dung sự đổi đời này, ta biết rằng cùng năm đó, các hãng phim lớn như Warner Bros. cũng chỉ làm được 21 phim, Hãng Disney có 12 phim, Hãng Universal có 19 phim.

Dĩ nhiên so sánh này là khập khiễng nếu xét về góc độ doanh thu vì có thể chỉ cần một phim bom tấn của một hãng truyền thống cũng đã ăn đứt nhiều phim của Netflix làm. Tuy nhiên, với số lượng áp đảo như thế, Netflix dần thu hút được dàn diễn viên nổi tiếng, các đạo diễn xuất sắc chịu làm phim cho mình, người xem phải đăng ký trả tiền hằng tháng cho Netflix nếu muốn thưởng thức phim họ yêu thích.

Các hãng phim khổng lồ đã phải ghen tị khi Netflix chiếm tổng cộng 24 đề cử cho mùa giải Oscar 2020, nhiều đề cử hơn bất cứ hãng phim nào khác, trong đó có các phim đáng chú ý như The Irishman, Marriage Story, The Two Popes... Cuối cùng họ chiếm được hai giải, nữ diễn viên phụ xuất sắc (phim Marriage Story) và phim tài liệu xuất sắc (American Factory).

Cảnh phim American Factory.

Rất khó tính toán lời lỗ cho từng phim Netflix làm nhưng số liệu nơi này công bố cho thấy năm 2019 họ bỏ ra 15,3 tỉ đôla cho nội dung, kể cả phim tự làm. Tính đến quý 1-2020, Netflix có tới 182 triệu người dùng trả tiền trên khắp thế giới, đáng kể là số người xem từ bên ngoài nước Mỹ lên đến 112 triệu.

Đại dịch COVID-19 làm thay đổi thói quen xem phim của nhiều người; không còn vào rạp nữa, họ buộc phải sử dụng các dịch vụ coi phim trực tuyến, trong đó Netflix là địa chỉ đầu tiên nhiều người nghĩ đến. Chỉ riêng quý 1-2020, Netflix có thêm 16 triệu người dùng, cao gấp đôi số liệu họ dự báo.

Câu hỏi nhiều người quan tâm, là Netflix hiện đang lời hay lỗ, lại không có câu trả lời rõ ràng. Nếu dựa vào báo cáo chính thức của Netflix thì họ đang có lãi: năm 2019 họ thu được 20,1 tỉ đôla từ 167 triệu người dùng đăng ký trả tiền, lãi ròng 1,9 tỉ đôla.

Thế nhưng dòng tiền luân chuyển lại âm, âm đến 3,3 tỉ đôla năm 2019. Tại sao vậy? Họ tiêu tiền thật để sản xuất phim, tiền trả hết ngay cả khi chưa có phim để chiếu nhưng hạch toán thì chậm, có khi chi xong 1 năm sau mới hạch toán.

Điều này cho phép Netfix báo lãi mặc dù chi nhiều hơn thu. Dù sao đại dịch Covid-19 này cũng giúp họ lật ngược tình thế, bắt đầu thu nhiều hơn chi: quý 1 có dòng tiền dương lần đầu tiên dù chỉ 162 triệu đôla. Những phim làm rồi cứ thế thu tiền mãi mãi từ người xem, trong khi bình quân chỉ cần 4 năm (trình chiếu) là thu hồi đến 90% vốn (bỏ ra để sản xuất phim).

Ảnh: Pinterest
Ảnh: Pinterest

Đĩa DVD trả chậm và phá hủy để sáng tạo

Netflix do hai người bạn Marc Randolph và Reed Hastings sáng lập vào năm 1997. Theo lời Hastings kể thì ông này bực mình vì bị hãng cho thuê băng đĩa Blockbuster phạt 40 đôla do trả lại bộ phim Apollo 13 chậm nên bàn với Randolph khởi nghiệp làm dịch vụ cho thuê băng đĩa.

Sau này Randolph viết sách nói không hề có chuyện đó, chỉ là do hai người đi chung xe từ nhà đến chỗ làm khá xa nên ngày nào cũng bàn chuyện khởi nghiệp, với cảm hứng từ khái niệm thương mại điện tử của Amazon vừa tung ra lúc đó.

Sau nhiều ý tưởng, hai người “kết” với ý tưởng dịch vụ bán và cho thuê phim có ứng dụng công nghệ. Đó là thời dot.com bùng nổ, các ý tưởng khai thác mạng Internet mới bắt đầu phổ biến. Khác với Blockbuster mở hàng loạt cửa hàng, người muốn thuê băng đến lựa đem về, khi trả cũng phải đem ra tận nơi, Marc và Reed muốn bán và cho thuê băng đĩa qua mạng, phim giao bằng đường bưu điện. Nhưng lúc đó băng VHS rất cồng kềnh, bưu điện ăn hết tiền phí gửi, phải đến lúc đĩa DVD ra đời, ý tưởng của họ mới thành hiện thực.

Thoạt tiên, điều làm họ bất ngờ là doanh thu mua đĩa qua dịch vụ của họ cao hơn nhiều so với dịch vụ thuê đĩa. Lúc đó họ có một quyết định táo bạo sáng suốt: bỏ dịch vụ bán đĩa dù nó đang đem lại lợi nhuận cho một công ty non trẻ, tập trung vào dịch vụ cho thuê đĩa dù đang lỗ nặng.

Lập luận của họ là bất kỳ hệ thống siêu thị nào như Walmart hay Amazon đều có thể bán đĩa qua bưu điện nên tương lai họ không cạnh tranh nổi, song lúc ấy lại không có ai làm dịch vụ cho thuê, nên khả năng họ sẽ thành công rất cao.

Thực tế xác nhận điều đó: người xem phim rất khoái chí với chuyện Netflix không bao giờ phạt chuyện trả đĩa trễ, muốn giữ đĩa bao lâu cũng được, miễn sao gửi trả thì mới thuê được đĩa khác.

Năm 2000, họ bỏ luôn khái niệm thuê đĩa; khách chỉ cần trả một khoản tiền hằng tháng, chẳng hạn 10 đôla, rồi muốn đổi bao nhiêu đĩa cũng được, miễn sao trả đĩa cũ, nhận đĩa mới... Mọi sự không dễ dàng chút nào lúc đầu, có lúc thua lỗ, quá khó khăn, họ đã định bán cho Blockbuster chỉ với giá 50 triệu đôla. Nhưng lúc ấy Blockbuster cười vào mũi họ, từ chối.

Gã khổng lồ Blockbuster đã sai khi cười sớm quá. Do chậm xoay chuyển, cuối cùng Blockbuster phải tuyên bố phá sản vào năm 2010. Trong khi đó Netflix liên tục thay đổi, dịch vụ cho thuê đĩa đang phát đạt, họ vẫn tính đến mô hình người xem vào tận kho phim của họ, chọn phim để vừa tải vừa xem, gọi là “streaming”.

Ý tưởng mới mẻ này cũng phải đợi đến khi mạng Internet băng thông rộng được sử dụng rộng rãi mới khả thi. Cũng như lúc bỏ mô hình bán đĩa, giữ mô hình cho thuê, Netflix cũng đánh cược vào tương lai khi họ giới thiệu dịch vụ streaming trong khi kho phim có sẵn để streaming lúc đó chỉ có chừng 1.000 đầu phim, còn kho phim DVD cho thuê đã lên đến 100.000.

Cuối cùng Netflix tách hẳn dịch vụ cho thuê đĩa qua đường bưu điện dưới một cái tên khác để tập trung vào dịch vụ streaming như ngày nay. Hiện nay giá trị thị trường của Netflix vào khoảng 197 tỉ đôla. Marc Randolph rời Netflix năm 2002, Reed Hastings ở lại, tiếp tục vai trò “phá hủy” để “sáng tạo”.

Ảnh: Hollywood Reporter
Ảnh: Hollywood Reporter

Tương lai Netflix là tương lai của điện ảnh

Muốn có phim lưu trên máy chủ để người xem vào chọn lựa, Netflix phải thương lượng khá vất vả với các hãng phim.

Ví dụ năm 2010, họ thương lượng với ba hãng phim lớn gồm Paramount, Lionsgate và Metro-Goldwyn-Mayer để người dùng có thể vào xem kho phim của ba hãng này trong một hợp đồng trị giá 1 tỉ đôla trong vòng 5 năm.

Đó là với kho phim cũ. Đối với phim mới, sự thể khó hơn nhiều. Họ phải đợi các hãng công chiếu ngoài rạp một thời gian, rồi lại phải chờ cho các hãng làm đĩa DVD hay Bluray bán ra thị trường ít nhất 28 ngày mới được đưa phim lên Netflix cho khách xem.

Với các bộ phim nhiều tập ăn khách như Friends, Netflix phải trả đến 100 triệu đôla mỗi năm, cuối cùng năm 2020 cũng phải trả lại cho AT&T's WarnerMedia để nơi này tự kinh doanh. Cũng nhờ Friends mà Netflix bành trướng nhanh chóng ra thế giới, nơi khán giả rất ái mộ series phim truyền hình nhiều tập này.

Thế là để chủ động, không phụ thuộc vào các hãng phim truyền thống, Netflix tự mình làm phim. Thoạt tiên, họ tổ chức thuê người làm phim rồi đóng nhãn Netflix Original như với bộ phim truyền hình nhiều tập House of Cards vào năm 2013.

Thành công của House of Cards dẫn tới các series phim đình đám khác như Orange Is the New Black, Daredevil, Jessica Jones, rồi Sense8 của chị em đạo diễn Wachowski nổi tiếng từng làm phim Matrix... Netflix đã trở thành kẻ đến sau nhưng ngồi vào chiếu trên trong làng làm phim với những phim cả hàng chục triệu người xem như Bird Box, Triple Frontier, The Highwaymen...

Sandra Bullock trong phim Bird Box.

Để có tiền làm phim, Netflix phải vay nợ rất nhiều, hiện nay nợ dài hạn của họ lên đến 14,6 tỉ đôla, chưa kể 19,1 tỉ đôla nghĩa vụ trả cho nội dung đã cam kết. Nhưng cũng giống mô hình nhiều doanh nghiệp công nghệ khác, lời lỗ không còn là thước đo quan trọng nữa; nhà đầu tư sẵn sàng rót tiền cho họ miễn sao họ vẫn duy trì tốc độ phát triển, ở đây là số lượng người đăng ký trả tiền hằng tháng, và từ đó là đầu phim mới để giữ khách cũ, hút thêm khách mới.

Trong khi đó các hãng phim truyền thống bị ràng buộc bởi chuyện lời lỗ từng phim. Gặp hai ba phim bom xịt là hãng sẽ lâm nguy ngay. Chính vì thế nhiều người dự đoán Netflix sẽ trở thành hãng phim quan trọng, trong tay có đủ nguồn lực và nhân lực để làm phim dài hơi. Nơi này sẽ định hình các tiêu chí cho ngành điện ảnh trong những năm tới, kể cả ở thị trường các nước.

Hiện nay Netflix phải cạnh tranh với nhiều nơi có dịch vụ tương tự như Disney+, Apple, Amazon Studios hay HBO Max. Vì thế, theo một số dự đoán, Netflix đang ấp ủ các mô hình mới để đi trước đối thủ cạnh tranh như họ từng làm trong quá khứ. Đó có thể là máy coi phim trong một không gian ảo giúp người xem dù ở nhà nhưng vẫn có trải nghiệm như đang xem phim ở rạp. Đó có thể là hiện thực ảo - một thế giới người xem tương tác với phim, thay đổi số phận của nhân vật, thay đổi nội dung cốt truyện hay ít nhất can thiệp vào cách kết phim.

Ngoài việc mua phim để đưa vào kho phim cho phong phú, Netflix rất có thể sẽ bỏ tiền ra sản xuất phim tại nhiều nước; như ở Việt Nam cho khán giả Việt Nam xem nhằm chiếm lĩnh thị trường xem phim trực tuyến khắp nơi.

Nhưng ở góc độ người xem, thuận tiện và dễ dàng chưa phải là tất cả. Họ lo ngại một điều quan trọng: Netflix hiện sở hữu một lượng dữ liệu khổng lồ về thói quen, sở thích của người xem. Nhiều người “nhắm mắt đưa chân”, chỉ dựa vào gợi ý của Netflix để chọn xem phim kế tiếp.

Hãy hình dung về một tương lai mà Netflix cũng như mạng xã hội ngày nay, sử dụng dữ liệu người dùng để xây dựng nội dung phim mà họ biết chắc sẽ ăn khách, chiều chuộng một khẩu vị đám đông. Đi theo lối đó riết, Netflix chỉ còn loại phim dễ dãi, rẻ tiền, đánh đấm ồn ào hay sướt mướt tình cảm. Ngay tại thị trường Việt Nam lúc này, top 10 phim hầu hết là phim Hàn, thì sẽ thấy. ■

Cứ nhìn vào số phim mà Netflix “bày mâm bày bát” cho từng khách, có thể biết ngay sở thích điện ảnh của khách là gì. Sự nguy hại ở đây là: do bị bao vây bởi cùng một loại phim từng thích xem, người xem sẽ đánh mất khả năng khám phá, chẳng bao giờ ra nổi ngoài cái luồng phim quen thuộc đó để thưởng thức những thế giới khác.

 

Vì sao kho phim của Netflix ở Việt Nam ít thế?

Netflix hiện có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới nhưng nội dung xem được ở từng nước lại rất khác nhau. Ngay với hai nước cạnh nhau là Mỹ và Canada, kho phim cũng rất khác: Netflix Mỹ xem được 4.091 phim, Netflix ở Canada chỉ xem được 2.942 phim.

Theo trang Finder.com, tài khoản Netflix ở Việt Nam chỉ xem đi xem lại được 528 phim truyện và 186 phim truyền hình, một con số rất nhỏ nhoi. Nhìn chung kho phim Netflix xem từ các nước Đông Nam Á chỉ hơn 500 phim, xem từ Singapore chỉ được 489 phim, kho phim Netflix ở Lào thậm chí chỉ có 206 phim.

Lý do chính được đưa ra là vì thỏa thuận bản quyền với nơi sở hữu phim, các hãng phim muốn bảo vệ bản quyền để còn bán hay cho thuê phim trên các kênh khác. Thông thường mỗi phim có một lượng khán giả nhất định; phim được xem rất nhiều ở Mỹ chưa chắc có ai xem ở Brazil hay một phim hài thành công của Anh lại không hề gây cười ở châu Á.

Những đặc điểm này thường được đưa ra trên bàn đàm phán giá thuê trọn gói của Netflix với các hãng phim; từ đó Netflix mới có danh sách các phim khác nhau cho các thị trường khác nhau. Việc biên soạn danh sách này cũng do mục đích doanh thu của Netflix, vì những thị trường nhỏ như Lào thì họ không lưu tâm.

Nhưng nhìn từ góc độ người dùng như ở Việt Nam, trả phí cũng gần như nhau mà chỉ xem được một kho phim Netflix ít ỏi, ai cũng bực mình. Chưa kể độ đa dạng của kho phim này là khá thấp.

Chỉ với loại phim tự sản xuất (Netflix Originals), để thu hút khách mới, Netflix mới mở hết cho mọi thị trường, xem đó là điểm mạnh để quảng cáo.

Bạn đang đọc trong chuyên đề "STREAMING - CUỘC CHIẾN CÒN DÀI"