Làm từ thiện - những chuyện dễ và khó

Tuổi Trẻ Cuối Tuần

TTCT - Việt Nam đang có một nguồn vốn xã hội vô cùng to lớn và quý báu là tinh thần “hoạn nạn tương cứu” giữa đồng bào, cùng niềm tin chất phác về chuyện hiến tặng từ thiện. Nhưng niềm tin đó nếu không được bảo vệ bằng pháp lý sẽ dễ bị xói mòn và tổn thương. Làm từ thiện có dễ? Bạn cho tiền và vì thế là người tốt? Cần tới những hướng dẫn nào để có một xã hội thể hiện lòng nhân ái, đùm bọc nhau một cách đúng đắn và hiệu quả?

Từ ngày 1-9, kêu gọi và phân phối nguồn từ thiện phải mở sổ kế toán ghi chép minh bạch

L.THANH 18/07/2022 12:28 GMT+7

TTO - Đó là một trong những nội dung được nêu tại thông tư số 41 vừa được Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn chế độ kế toán áp dụng cho các hoạt động xã hội, từ thiện.

Từ ngày 1-9, kêu gọi và phân phối nguồn từ thiện phải mở sổ kế toán ghi chép minh bạch - Ảnh 1.

Vợ chồng ca sĩ Thủy Tiên trao tiền hỗ trợ cho bà con vùng lũ tháng 10-2020 - Ảnh: NGỌC THẮNG

Về nguyên tắc đối với hoạt động từ thiện, trong thông tư Bộ Tài chính nhấn mạnh tất cả tổ chức, cơ quan, đơn vị, cá nhân tham gia vận động, tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện để làm từ thiện hỗ trợ khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố... đều phải mở sổ kế toán ghi chép đầy đủ lập báo cáo và minh bạch thông tin theo quy định.

Các tổ chức, cơ quan, đơn vị có những hoạt động xã hội, từ thiện có tổ chức kế toán riêng để hạch toán các hoạt động vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện phải mở sổ kế toán ghi chép, hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, lập báo cáo tài chính đầy đủ, minh bạch theo quy định.

Các tổ chức, cơ quan, đơn vị có các hoạt động xã hội, từ thiện được giao kiêm nhiệm, không tổ chức kế toán riêng để hạch toán các hoạt động vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện thì phải hạch toán trên cùng hệ thống sổ kế toán của đơn vị, theo chế độ kế toán mà đơn vị đang áp dụng.

Đơn vị phải mở sổ chi tiết để theo dõi riêng cho các hoạt động này, đảm bảo quản lý, sử dụng đúng mục đích.

Hằng năm hoặc định kỳ phải lập báo cáo thu, chi đối với hoạt động xã hội, từ thiện của đơn vị trong năm theo quy định; công khai số liệu, đồng thời phải thuyết minh riêng số liệu các hoạt động xã hội, từ thiện trên báo cáo tài chính chung của đơn vị rõ ràng và minh bạch.

Còn đối với cá nhân tham gia hoạt động xã hội, từ thiện, thông tư hướng dẫn phải có trách nhiệm mở sổ ghi chép đầy đủ thông tin về kết quả tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện theo quy định; đồng thời công khai tình hình tiếp nhận và phân phối nguồn đóng góp theo quy định của pháp luật.

Về cách thức tiếp nhận, Bộ Tài chính yêu cầu trường hợp tiếp nhận tài trợ bằng tiền, cá nhân người vận động phải mở riêng tài khoản cho mục đích xã hội, từ thiện tại ngân hàng. Không được nhận tiền tài trợ cho mục đích xã hội, từ thiện vào chung tài khoản chi tiêu cá nhân của người vận động.

Trường hợp tiếp nhận tài trợ bằng tiền mặt, cá nhân tiếp nhận tài trợ phải có trách nhiệm bảo quản tiền an toàn. Trường hợp chưa sử dụng có thể đem gửi vào tài khoản ngân hàng được mở riêng cho mục đích xã hội tại ngân hàng.

Trường hợp tiếp nhận bằng ngoại tệ, cá nhân phải bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại và quản lý, sử dụng tiền Việt Nam để thực hiện tài trợ theo quy định.

Cá nhân kêu gọi làm từ thiện: có lòng tốt thôi là chưa đủ! Cá nhân kêu gọi làm từ thiện: có lòng tốt thôi là chưa đủ!

Cá nhân đứng ra kêu gọi từ thiện ngoài lòng tốt cần phải có kỹ năng, tính chuyên nghiệp và sự minh bạch. Có như vậy hoạt động thiện nguyện mới có thể phát huy được hiệu quả và trở nên ý nghĩa hơn.

Hướng tới từ thiện chuyên nghiệp

TTCT - Đã tới lúc phải có những thiết chế pháp lý nhằm bảo vệ công tác từ thiện chuyên nghiệp, để bảo vệ cả người đóng góp lẫn người nhận đóng góp từ thiện tốt hơn.


Ảnh: New Yorker

Giữa những ngày miền Trung vật lộn với khó khăn do thiên tai, điều ấm lòng nhất là tình cảm tương thân tương ái từ người dân cả nước qua những lời kêu gọi và đóng góp sẻ chia cho đồng bào vùng lũ. 

Nhưng nếu việc huy động nguồn lực là điểm sáng thì nhìn nhận thẳng thắn, có thể nói việc tổ chức và điều phối các nguồn lực cứu trợ là chưa thực sự hiệu quả. 

Hình ảnh ca sĩ Thủy Tiên không ngại hiểm nguy vượt nước lũ đến cứu trợ từng gia đình; những dãy nồi bánh chưng ở Nghệ An, Kon Tum và nhiều vùng xa xôi khác đỏ lửa đêm ngày mong giúp người dân gặp nạn không chỉ không bị đói mà còn được ăn uống đàng hoàng hơn những gói mì tôm sống làm mỗi người chúng ta đều xúc động. 

Nhưng khi đây đó trên mạng xã hội xuất hiện cảnh bánh chưng hỏng phải bỏ đi; quần áo, chăn màn cũ không dùng đến trở thành “rác cứu trợ”, những người vất vả vận động đóng góp rồi chuyển hàng đi hàng trăm cây số hẳn không khỏi buồn lòng. Nhìn rộng ra, những khó khăn còn đến từ chuyện phân phối hàng cứu trợ, từ nỗi lo nguồn lực bị sử dụng sai mục đích.
Không nên đổ lỗi một cách đơn giản cho chính quyền địa phương hay nhà hảo tâm, bởi mỗi bên trong phạm vi có thể đều đã rất nỗ lực rồi. 

Thay vào đó, cần tính đến những giải pháp căn cơ và dài hạn, chính là chuyên nghiệp hóa hoạt động cứu trợ. Đặt trong bối cảnh Việt Nam, với xu hướng thiên tai ngày phức tạp và khốc liệt, sự chuyên nghiệp hóa như thế lại càng cần kíp. Cốt lõi của tiến trình là các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức từ thiện hoạt động chuyên nghiệp và thường xuyên.

Xã hội đã sẵn sàng

Để một tổ chức chuyên nghiệp có thể ra đời, điều kiện cần trước hết là nguồn lực xã hội, sự sẵn sàng đóng góp cho hoạt động từ thiện. Còn điều kiện đủ là môi trường pháp lý minh bạch và mang tính khuyến khích, cho cả người đứng ra kêu gọi tài trợ lẫn người đóng góp.

Xét điều kiện cần, chúng ta đã có hơn 30 năm đổi mới và tăng trưởng kinh tế liên tục giúp Việt Nam hình thành một một nhóm đáng kể các cá nhân đủ sức làm thiện nguyện, lẫn một tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh và có ý thức trách nhiệm xã hội cao. 

Những người có ảnh hưởng, nhất là các ngôi sao giải trí, cho thấy họ đã sẵn sàng nhận lãnh những trách nhiệm xã hội lớn lao hơn, chứ không phải là hứng thú nhất thời hay chỉ “làm màu” để đánh bóng hình ảnh. Quan trọng hơn, người dân cũng bắt đầu có niềm tin để sẵn sàng góp tiền theo lời kêu gọi của những người nổi tiếng có uy tín.

Việc Thủy Tiên có thể huy động số tiền kỷ lục hơn 140 tỉ đồng, do đó, là xu thế đáng mừng, cho phép chúng ta kỳ vọng về một viễn cảnh mà hành xử của những người nổi tiếng Việt Nam tiệm cận xu thế chung của thế giới. 

Những người nổi tiếng như Angeline Jolie, Jessica Chastain (điện ảnh); Lionel Messi, Rafael Nadal, Roger Federer (thể thao); hay Bill Gates, Warren Buffet (nhà tài phiệt)... đều là những nhà từ thiện lớn. Họ không chỉ bỏ tiền túi ra làm từ thiện, mà còn dùng uy tín và ảnh hưởng cá nhân để kêu gọi đóng góp từ cộng đồng.

Ở Việt Nam, những hạt giống cho từ thiện chuyên nghiệp đã có. Vấn đề là làm sao để chúng nảy mầm?

Điều kiện đủ

Điều kiện cần đã có, nhưng điều kiện đủ là môi trường pháp lý thì Việt Nam chưa có. Luật dân sự và hai nghị định 64 (2008) và 93 (2019) không được thiết kế để khuyến khích các tổ chức chuyên nghiệp. 

Những gì Thủy Tiên làm không sai luật, chiếu theo các văn bản pháp lý hiện hành, nhưng Luật dân sự vốn điều chỉnh quan hệ cho tặng chỉ bảo vệ Thủy Tiên khỏi rủi ro bị chiếm đoạt số tiền cô huy động được, chứ chưa bảo vệ được lợi ích đầy đủ của các cá nhân góp tiền cho Thủy Tiên. 

Và như vậy gián tiếp không bảo vệ được uy tín của chính cá nhân người huy động nếu cô gặp rủi ro trong tiến trình sử dụng các khoản đóng góp - mà rủi ro kiểu này rất nhiều và rất lớn, đi kèm số tiền huy động được.

Ví dụ, nếu tôi góp tiền cho Thủy Tiên với kỳ vọng mua đồ ăn, thức uống cứu trợ bão lũ, mà hết lũ rồi, cô chưa sử dụng hết số tiền đó, lại dùng vào việc khác, ngay cả vẫn với mục đích tốt đẹp như mua sách vở cho học sinh khó khăn hay nước ngọt cho đồng bào miền Tây bị hạn mặn, không đúng với mong muốn ban đầu của tôi, thì điều gì xảy ra? 

Thủy Tiên có được toàn quyền quyết định các khoản trao tặng không đúng mục tiêu ban đầu của tôi không, hay cô phải trả lại? Về quá trình sử dụng và minh bạch khoản tiền đóng góp, Thủy Tiên có trách nhiệm phải báo cáo cho tôi biết cô ấy sử dụng số tiền thế nào không? 

Khi đã lên đến hàng nghìn, thậm chí hàng triệu người đóng góp thì làm thế nào để báo cáo hết cho từng người? Cá nhân tôi không thể giám sát, không thể đi theo để biết Thủy Tiên sử dụng số tiền đó như thế nào, vậy liệu có ai giúp tôi làm điều đó? 

Nếu Thủy Tiên vẫn mua hàng để cứu trợ như cam kết với tôi - nhưng mua từ một nhà cung cấp người quen, đẩy giá lên so với thực tế, hoặc bản thân cô không làm vậy, nhưng một thành viên trong nhóm cứu trợ lại làm vậy thì xử lý gian lận đó như thế nào?

Luật dân sự không trả lời được những câu hỏi đó - và cũng không có chức năng trả lời. Luật dân sự chỉ xử lý quan hệ trực tiếp một đối một, giữa cá nhân Thủy Tiên và cá nhân tôi. Tôi góp tiền cho Thủy Tiên là thực hiện một hợp đồng tặng cho, không yêu cầu đền bù trong bất kỳ trường hợp nào (điều 457).

Giả sử Thủy Tiên có làm sai đi chăng nữa, tôi cũng không được quyền yêu cầu cô bồi thường. Điều này đồng thời gián tiếp đặt Thủy Tiên vào rủi ro tổn hại uy tín cá nhân. Ngay cả khi cô hoàn toàn trong sáng, vẫn có những lời dị nghị, thậm chí cố tình dị nghị và không có bên thứ ba độc lập khách quan nào có thể chứng thực cho sự trong sáng của cô. (Một lần nữa, xin lưu ý đây chỉ là những tình huống giả định để phân tích).

Cần luật về tổ chức phi lợi nhuận chuyên nghiệp

Mục tiêu của một đạo luật như vậy là xây dựng các thiết chế bảo vệ lợi ích của người đóng góp, yêu cầu trách nhiệm minh bạch và báo cáo hoạt động của quỹ. Lưu ý rằng chỉ khi số tiền nhận được từ đóng góp vượt một ngưỡng nhất định thì luật mới điều chỉnh.

Ví dụ ở Anh, theo đạo luật về hoạt động từ thiện (Charity Act, sửa đổi gần nhất năm 2011), ngưỡng phải đăng ký hoạt động là khi cá nhân/tổ chức gây quỹ được hơn 5.000 bảng Anh trong một năm. Ngưỡng tối thiểu thấp như vậy là một chủ đích của nhà nước để điều tiết các nguồn đóng góp về các tổ chức chuyên nghiệp, thay vì cá nhân tự phát.

Có ba cơ chế chính cần thiết kế trong một đạo luật như vậy.

Thứ nhất là cơ chế báo cáo bắt buộc về tình hình hoạt động và tài chính của tổ chức. Tiền thu được bao nhiêu, sử dụng cho những mục đích gì cần được báo cáo cụ thể, công khai cho toàn bộ công chúng. 

Với những tổ chức có mức thu trong năm vượt ngưỡng nhất định, còn phải báo cáo bắt buộc với một ủy ban giám sát. Ở Anh, tổ chức từ thiện có thu nhập vượt mức 25.000 bảng phải nộp báo cáo thường niên cho ủy ban.

Thứ hai là quy định về hồ sơ kế toán, chế độ hậu kiểm và kiểm toán để đáp ứng chuẩn mực minh bạch tài chính. Ở Anh, tất cả tổ chức từ thiện có thu nhập hằng năm trên 25.000 bảng phải được kiểm toán hoặc kiểm tra độc lập, và thu nhập trên 1 triệu bảng phải được kiểm toán.

Cơ chế thứ ba là hội đồng quản lý của tổ chức, có thể dưới dạng hội đồng tín thác (Board of Trustees). Hội đồng này thường là những người có uy tín, được bầu cử hoặc chỉ định - đại diện cho tập thể tất cả những người đóng góp. 

Một cách đơn giản, góp tiền từ thiện cũng như góp cổ phần cho công ty đại chúng. Hội đồng tín thác tương đương hội đồng quản trị công ty, sẽ thay mặt “cổ đông”, ở đây là người góp quỹ, quyết định sử dụng số tiền. 

Tức là nếu có tổ chức từ thiện chuyên nghiệp, Thủy Tiên có thể “tín thác” (giao phó dựa trên niềm tin) cho tổ chức. Cô có thể là thành viên trong hội đồng tín thác để quyết định dùng số tiền vào mục đích gì, đồng thời là người giám sát ban điều hành hay giám đốc quỹ để bảo đảm những người thực thi trực tiếp sẽ hành xử chuyên nghiệp và thực hiện đúng sứ mệnh đề ra - tức bảo vệ niềm tin của người đóng góp. 

Như vậy, người góp tiền thực hiện quyền quyết định sử dụng nguồn lực gián tiếp qua lựa chọn đại diện của mình trong hội đồng tín thác.

Cần nói thêm, hình thành những thiết chế này đồng nghĩa sẽ xử lý được vấn đề chi phí hành chính phát sinh cho những người làm cứu trợ phi lợi nhuận và chuyên nghiệp. 

Người góp tiền cần hiểu và chia sẻ những chi phí như vậy. Tức để số tiền 140 tỉ mà Thủy Tiên huy động đến được đúng người, đúng mục đích, cũng cần một phí tổn không nhỏ (ngoài 140 tỉ đó), ngay cả không kể thời gian và công sức cá nhân của người “đi cứu trợ”. 

Các cơ quan báo chí - địa chỉ phổ biến nhận quyên góp hiện nay - cũng sẽ đỡ cảnh “nhận càng nhiều quyên góp càng méo mặt” bởi phải tốn chi phí cho các hoạt động phân phát mà không biết lấy tiền từ đâu ra.■

Niềm tin: nguồn vốn xã hội

Thông thường trong pháp luật các quốc gia về thiện nguyện, những người góp tiền được gọi là người tín thác (trustor); và người nhận tiền là người nhận tín thác (trustee).

 Chữ “tín” - niềm tin - ở đây đóng vai trò trung tâm. Pháp lý chính là các thiết chế để bảo vệ lòng tin này. Chúng ta có một nguồn vốn xã hội khổng lồ và vô cùng quý báu là tinh thần “hoạn nạn tương cứu” giữa đồng bào.

Nhưng niềm tin đó nếu không được bảo vệ bằng pháp lý sẽ dễ bị xói mòn và tổn thương. Trách nhiệm bảo vệ tài sản vô giá đó, một lần nữa nằm trong tay những nhà lập pháp.

Bạn có phải là một người tốt?

TTCT - Câu chuyện từ khái niệm “poverty porn” mà TTCT từng nêu (TTCT số 31, ra ngày 17-8-2014) nay vẫn có thể giúp gợi ra nhiều suy nghĩ về cách chúng ta làm từ thiện. Bài phỏng vấn bà Janina Ochojska - nhà hoạt động từ thiện Ba Lan nổi tiếng, chủ tịch - nhà sáng lập tổ chức thiện nguyện phi chính phủ “Hoạt động nhân đạo Ba Lan” - dưới đây (Grzegorz Sroczynski thực hiện, đăng trên Gazeta Wyborcza - nhật báo lớn nhất Ba Lan, số ra ngày 8-8-2014) là một góc nhìn có khá nhiều điểm mà Việt Nam có thể tìm thấy sự tương đồng.

Bà Janina Ochojska (chống nạng, đứng giữa) trong một chuyến đi cứu trợ tại Nam Sudan - Ảnh: bartpogoda.net

* Có nên cho tiền những người ăn xin không?

- Không cho.

* Thế nếu là một đứa trẻ ăn xin thì sao?

- Cũng không cho. Đứa trẻ bị lợi dụng để làm anh cảm động và để moi tiền anh. Kẻ kiếm được tiền là người khác, cả một băng nhóm. Một người quen của tôi làm việc trong tu viện ở Kraków đã quan sát những người ăn xin trước tu viện, họ kiếm tiền rất khá. Một ngày có thể kiếm được 300 zloty (1) và người ăn xin phải mua chỗ.

Một bà mẹ ngồi với đứa con nhỏ, trông có vẻ nghèo rớt mồng tơi, chắc là họ nghèo thật, nhưng có kẻ đã đặt họ ngồi vào chỗ ấy và thu tiền. Người quen tôi có lần nhìn thấy hắn sau khi thu tiền đã đi về bằng taxi.

 Có lời khuyên chung nào để người được nhận sự giúp đỡ không cảm thấy tủi thân?

- Tôi nhớ chuyện hồi nhỏ, khi một bà của cứu trợ xã hội bước vào lớp và nói: “Chúng ta sẽ mua quần áo cho các bạn nghèo. Ochojska không có áo khoác, vậy ta sẽ mua áo khoác cho bạn, còn cho Kowalska thì mua quần”. Khi đó tôi cảm thấy rất kinh khủng. Nếu tôi phải đưa ra một lời khuyên thì nó sẽ là không chỉ mặt điểm tên.

* Bằng cách này giới trung lưu Ba Lan rũ bỏ trách nhiệm của mình. “Toàn là những kẻ đểu cáng, họ muốn lừa tiền của chúng ta” - chúng ta lặp đi lặp lại điều đó và thờ ơ lướt qua những người ăn xin.

- Tôi chơi thân với xơ Chmielewska (2), bà cũng có ý kiến: không cho tiền những người ăn xin. Một đứa trẻ buổi tối không mang tiền về sẽ bị đánh. Có thể như thế. Nhưng nếu tôi cho tiền, đứa trẻ cũng vẫn phải chịu hình phạt bởi nó sẽ vẫn tiếp tục bị cho đi ăn xin.

Ném ra một đồng xu, bạn không làm cho cuộc sống của họ thay đổi gì. Bạn không giúp đỡ được họ. Hiệu quả duy nhất là bạn vỗ về được một chút cho lương tâm của mình: ồ, tôi đã làm được một việc gì đó, tôi đã không thờ ơ đi ngang qua.

* Lương tâm cũng quan trọng chứ.

- Quan trọng là giúp đỡ, chứ không phải là giải quyết cho lương tâm yên ổn.

Bà nghĩ điều gì tốt hơn: khiến người ta vô cảm với những người ăn xin, lướt qua họ một cách thờ ơ, không cho gì hết hay đôi khi cho vài đồng xu lẻ?

- Vậy thì tốt hơn là không cho gì hết.

* Tôi thấy khó lòng đồng ý với điều này.

- Những người thật sự thành đạt ở Ba Lan thường vô cảm với cái nghèo. Họ cho rằng thành công của họ duy nhất chỉ nhờ vào tài năng và họ không nợ ai điều gì hết. Một yếu tố của sự tự mãn này thường là quan điểm cho rằng nếu ai đó được đứng trên bục cao của cuộc đời thì chắc hẳn là do anh ta xứng đáng.

“Không có cái nghèo, chỉ có những người lười nhác” - đó là phiên bản dân túy luận của các tầng lớp cao. Và lời khuyên tuyệt đối “không cho” của tôi có thể trở thành công cụ hữu hiệu cho họ, cũng như câu chuyện về những băng đảng ăn xin.

* Chính thế.

- Tôi không muốn gỡ bỏ trách nhiệm cho người Ba Lan, nhưng hãy để sự mẫn cảm của họ đơm hoa kết trái thành một điều gì đó sáng suốt hơn là cho tiền lẻ ngoài đường. Vài đồng xu? Anh mua sự yên ổn cho lương tâm mình với giá quá rẻ mạt! Anh sẽ ném ra những đồng xu lẻ suốt cuộc đời mình và tự dối mình rằng anh không thờ ơ với số phận của đồng loại.

Tốt hơn là đừng cho, hãy để lương tâm nhạy cảm của anh đau khổ một chút và có thể rốt cuộc nó sẽ ra lệnh cho anh làm một điều gì đó nghiêm túc. Sự cắn rứt lương tâm có thể trở nên rất sáng tạo.

Một người bạn tôi từng hỏi một câu khó hơn: “Tôi dắt con trai đi trên phố, tôi muốn giáo dục cho nó về xã hội. Một người phụ nữ có bầu ngồi ăn xin. Tôi phải làm gì? Thờ ơ đi qua? Thế thì con tôi sẽ học điều đó. Cho tiền? Như thế cũng không tốt”.

Bạn tôi cùng cả gia đình đã tham gia giúp đỡ những người tàn tật từ nhiều năm, anh muốn dạy con việc làm thiện nguyện. Và anh muốn cư xử thích hợp trong cả những tình huống trên đường phố như thế này, để không phô bày chứng tâm thần phân liệt về đạo đức.

Tôi khuyên anh dạy con trong những tình huống như thế này thay vì cho tiền phải biểu lộ sự quan tâm. Đó là phản ứng tốt nhất.

* Sự quan tâm?

- Hãy tiếp cận. “Mẹ của em ở đâu?”, “Vì sao em đứng ngoài đường?”, “Em từ đâu đến?”. Tất nhiên sự tiếp cận này sẽ không dễ dàng bởi người ăn xin có thể không muốn điều đó, sẽ làu bàu khó chịu. Có thể họ không biết tiếng Ba Lan, nếu đó là một gia đình người Di-gan từ Romania. Nhưng cần phải cố gắng tìm hiểu hoàn cảnh của người đó.

Sau đó nói với con: “Con à, có các nhà tế bần và những tổ chức khác nhau, khi về đến nhà chúng ta sẽ gọi cho họ ngay và cố gắng làm điều gì đó”. Ví dụ, anh hãy tra trên mạng “quận Mokotów - nhà tế bần” hay “quận Mokotów - cứu trợ trẻ em”.

Anh gọi điện cho họ: “Ở số 80 đường Độc Lập có một em bé ăn xin, các ông bà có giúp được không?”. Hôm sau đứa trẻ cũng sẽ vẫn đứng đó mà.

* Còn họ sẽ phân bua rằng họ không phải là tổ chức có thể giúp được, và không thể làm gì.

- Rõ là như vậy. Đừng hi vọng rằng anh gọi điện và người ta sẽ cuống quýt lên: “Ôi ôi, ông thật cao cả khi gọi điện đến như vậy! Ôi, chúng tôi chạy ngay đến đó đây”. Đây chính là sự khác biệt giữa việc ném vài xu lẻ ngoài đường và sự chú tâm thật sự, cái thứ hai thường không dễ chịu và đòi hỏi sự kiên định.

Nơi đầu tiên sẽ nói đó không phải là việc của họ. Nhưng có thể họ sẽ biết phải liên hệ chỗ nào và cho số điện thoại. Nếu không thì anh tiếp tục tìm trên mạng. Anh cố gắng tìm được tổ chức thông thạo khu vực này và hứa sẽ kiểm tra tình hình đứa trẻ cùng gia đình nó.

Vài ngày sau anh lại gọi điện xem họ có xác minh thêm được gì không. Và khi đó chính là lúc để rút ví. Các tổ chức như vậy, dù lớn hay nhỏ, rất nhiều và họ luôn có khó khăn về tài chính.

 Bà Janina Ochojska - nhà hoạt động từ thiện Ba Lan nổi tiếng, chủ tịch - nhà sáng lập tổ chức thiện nguyện phi chính phủ “Hoạt động nhân đạo Ba Lan

 * Ở Ba Lan các tổ chức xã hội không được tin tưởng.

- Nếu anh hỏi một người bất kỳ xem anh ta có biết tổ chức nào có thể giúp đỡ trong quận hay trong thành phố của anh ta hay không, thì tôi dám cá rằng anh ta không thể nói được tên tổ chức nào cả. Người giàu lại càng không, vì họ sống trong khu khép kín. Người Ba Lan không biết về sự tồn tại của các định chế cứu trợ một cách đáng đau lòng.

Những người bỗng dưng bất ngờ gặp khó khăn, họ làm gì? Họ gửi thư cho những nhà hoạt động từ thiện nổi tiếng và truyền hình. Đấy là tất cả những gì họ có thể nghĩ ra được.

Một lần tôi đến xem chương trình của Elzieta Jaworowicz về một cô gái có nguy cơ bị đuổi ra đường. Những trường hợp như thế ngày một nhiều, vì tòa án bắt đầu phán quyết nhiều bản án vô tâm. Khắp nơi (nhà cô) bừa bộn khủng khiếp, giẻ rách vung vãi.

Tôi hỏi: “Cô không thể dọn dẹp một chút sao? Để thấy được có chút cố gắng từ phía cô”. Không. Cô ấy ĐỢI sự giúp đỡ của truyền hình. Nhân viên của tổ chức địa phương nói rằng cô ta không hề liên hệ với họ, mà họ có ngân sách cho những trường hợp như vậy.

Truyền hình thật ra gây hại, bởi nó có thể làm đình đám mọi sự cứu trợ bằng một phương pháp vô hạn định. Một người cần 1.000 để bơi tiếp bằng chính sức lực của mình, bỗng nhiên lại nhận được 100.000. Sau trận lụt năm 2001, truyền thông đưa công khai số tài khoản cá nhân của những người bị nạn, không ai kiểm soát tiền bạc.

Chúng tôi cùng báo Gazeta Wyborcza xây nhà cho những người bị lụt và có một cô nhận được thêm 250.000 trong tài khoản. Cô thường được lên tivi, đúng là cô ấy rất khó khăn. Thế là cô ấy mua một chiếc xe oách, đi vòng quanh Ba Lan và chúng tôi không thể giao nhà mới cho cô ấy. Con cái thì chị cô ấy phải nuôi.

Một sự trợ giúp thiếu kiểm soát như vậy có thể trở nên sai lầm, bởi không phải ai cũng biết sử dụng nó một cách sáng suốt. Tôi cho rằng tốt hơn nên chuyển tiền cho một tổ chức địa phương, một định chế có tài khoản ngân hàng và có thể giám sát điều đó. Họ sẽ giúp ở mức vừa đủ và số tiền thừa ra để dành cho những người khác.

 
 

 * “Tôi chẳng bao giờ cho ai cái gì, toàn là phường lừa đảo hết” - một người quen của tôi nói vậy.

- Một người bất hạnh.

* Cuộc phỏng vấn của chúng ta khẳng định thêm điều đó.

- Nhưng xin lỗi, ai mới là người có lỗi về chuyện cứu trợ vô trách nhiệm? Về việc một số tổ chức lợi dụng? Tôi biết điều tôi nói đây sẽ khiến nhiều người nhảy dựng lên, nhưng vấn đề nằm ở những người cho! Nếu những người đóng góp muốn có bản quyết toán, quan tâm đến việc tiền của mình được sử dụng ra sao thì các tình huống như vậy đã ít hơn.

Một ông đến chỗ chúng tôi và cho 1 triệu zloty để xây giếng nước ở Sudan, chúng tôi ký hợp đồng đàng hoàng và trình cho ông ấy bản quyết toán đầy đủ.

Nếu anh cho tùy tiện thì người ta cũng chi tùy tiện. Nếu anh cho hợp lý thì tiền sẽ được chi hợp lý. Hợp lý là gì? Điều này đòi hỏi nỗ lực, đi lại, kiểm tra, quan tâm. Sự chú tâm đến nó. Chứ không phải là giả vờ làm những cử chỉ cao đẹp, ném ra cả đống tiền bằng phản xạ của trái tim bởi đứa trẻ mồ côi khiến ta xúc động.

Chúng ta cho rằng bản thân việc cho tiền đã cao đẹp đến mức có thể miễn trừ mọi nỗ lực khác. Chỉ cần cho tiền và cả thế giới phải lấy làm hạnh phúc.

Sở hữu tiền bạc là một trách nhiệm. Một người may mắn trong cuộc sống và phải có trách nhiệm chia sẻ. Chia sẻ một cách thông minh. 

* May mắn?

- Tôi cố ý dùng từ này. Tất nhiên, có thể nói: tôi giỏi, tôi chăm chỉ, vì thế tôi có được như vậy. Nhưng đó không phải là toàn bộ sự thật của cuộc sống. Bởi nhiều người từ điểm xuất phát đã được cuộc đời ban tặng rất nhiều: một nơi sinh tốt hơn, trong nhà đầy sách, vốn văn hóa, hay có thể bố mẹ có những người quen biết xin việc cho, rồi sau đó nhờ thông minh và chăm chỉ tôi thành công ngoạn mục...

Dẫu sao đi nữa thì người đó cũng có nhiều cơ hội. Nhưng có những người không nhận được những cơ hội ấy hoặc họ rất bị hạn chế. Họ giỏi, chăm chỉ, mặc dù vậy họ không thành công. Ví dụ tôi là một người rất may mắn, tôi được số phận ban tặng rất nhiều và tôi coi điều này là một món nợ.

Cứu trợ là sự chọn lọc, lựa chọn. Đôi khi tàn nhẫn.

* Sự chọn lọc?

- Lần đầu tiên tôi phải đưa ra một quyết định là ở Sarajevo. Tôi phải quay về thành phố, xe tải của chúng tôi đã chuẩn bị lên đường. Tôi trở về xe và thấy một phụ nữ ngồi trong đó cùng một bé trai và hai cái vali. Cô van xin chúng tôi mang cô đi khỏi Sarajevo.

Và... anh biết đấy..., tôi phải đuổi cô ấy xuống xe. Bởi chúng tôi đi cùng với một toán quân Serbia và nếu không có họ thì chúng tôi không đời nào vào được Sarajevo. Thế là tôi đuổi cô ấy xuống giữa trời tuyết, tôi đã bỏ lại đứa trẻ giữa lòng chiến trận.

Tôi luôn nghĩ về người phụ nữ này, không biết cô có sống sót không. Và về cậu bé. Anh biết không..., cô ấy... quỳ giữa tuyết... và van xin tôi. Còn tôi...

* Lần đầu tiên tôi thấy bà khóc. Điều này không hợp với bà chút nào.

- Tôi nhớ tiếng khóc của cô ấy. Tóc cô ấy đen. Tôi nhớ người phụ nữ đã quỳ xuống và hôn chân tôi. Đúng thế. Và cậu bé ấy, kêu khóc ở đó...

Cứu trợ không phải là một câu chuyện cổ tích, tôi đã hiểu ra điều này. Sẽ không dễ chịu và phải mạnh mẽ về tâm lý.

* Phải tàn nhẫn.

- Anh có thể gọi như vậy. Tôi muốn dùng từ này hơn: kiên quyết. Để cứu trợ, cần có một điều gì đó bề ngoài có vẻ như trái ngược với đặc thù của nó - chính là cái đầu lạnh. Khoảng cách.

* Bà nổi tiếng về điều này. Tôi luôn ngạc nhiên khi thấy bà thường lạnh lùng đến thế khi kể về những người mà bà giúp đỡ.

- Tôi tỉnh táo. Tôi không thể giúp tất cả mọi người. Tôi phải chọn lựa. Và khi đã chọn lựa thì thực hiện một cách tốt nhất.

Chỉ có người như bà mới có thể cho phép mình đuổi một phụ nữ ra khỏi xe. Bởi bà làm những việc khác quan trọng hơn. Nhưng tôi thì không thể cho phép mình làm như vậy mà đạo đức không tan nát. Và cũng thế, tôi không thể lướt qua những người ăn xin ngoài phố một cách thờ ơ mà không cho họ tiền. Đây chính là sự khác biệt giữa chúng ta.

- Vậy thì anh hãy bắt tay vào làm điều gì đó quan trọng đi! Hay để tâm vào đi!

Anh muốn cư xử một cách có đạo đức và anh cảm thấy cực kỳ khó xử khi đi ngang qua những người ăn xin, điều đó nghe thật là hay. Sự cảm thông, mẫn cảm... Nhưng đó thật ra là những tình cảm yếu đuối và không nhất thiết hữu ích trong việc cứu trợ thật sự.

Tôi nhớ một cô gái đã được huấn luyện và chuẩn bị, nhưng khi nhìn thấy lũ trẻ mặc áo rách và quần thủng đít chạy theo cô ấy và kêu la: “Cho em một đồng” thì cô ấy bắt đầu phân phát hết không chỉ kẹo và tiền mà tất cả những gì cô ấy có trong người, vừa cho vừa khóc. Chúng tôi đưa cô ấy về trại và phải rút cô ấy khỏi Sudan. Đó không phải là đất nước dành cho cô ấy.

* Phải khiến những người như thế trở nên mất cảm giác, theo một nghĩa nào đó?

- Anh có thể gọi như thế. Tôi thì sẽ nói là làm cho họ trở nên thực tế.

Một người quen có lần kể cho tôi nghe ông đi tham quan ở Ấn Độ và khi nhìn thấy sự nghèo đói ở đó, ông đã thật sự xúc động, Sự thấu cảm, phản ứng của trái tim, những cảm xúc dâng trào khác... Ở một địa danh du lịch ông gặp một cô bé xinh xắn dễ thương, cô bé dẫn ông về nhà, ông trò chuyện với bố mẹ cô bé. Họ không muốn xin tiền, nhưng mơ ước có một quầy hàng nhỏ và họ cần có một cái xe bò. Ông đã mua xe bò cho họ.

Có thể nói rằng ông đã xử sự đúng mẫu: cho cần câu chứ không cho con cá. Và ông rơi vào bẫy của những kẻ lừa đảo. Chúng chuyên lừa những khách du lịch giàu có, nhưng chúng biết xin tiền đã trở thành một việc đáng ngờ, nên chúng nghĩ ra câu chuyện về quầy hàng và cái xe bò.

Có thể nói chúng đã điều chỉnh món hàng thị trường của mình cho phù hợp với trí tưởng tượng của một khách du lịch phương Tây được dạy dỗ tử tế về xã hội. Tất nhiên là chúng bán lại cái xe bò ngay lập tức, chúng đã thỏa thuận trước với người bán rồi.

Việc giúp đỡ có hiệu quả không? Đó là câu hỏi quan trọng nhất. Chúng ta hãy kết thúc lớp vỡ lòng về cứu trợ.

* Nhưng thế thì sao chứ? Dẫu sao họ vẫn nghèo khổ thật mà.

- Tất nhiên. Nhưng bằng cách đó họ học được rằng có thể kiếm tiền nhờ lừa đảo. Và điều đó làm hỏng họ. Không ai nói với tôi rằng lừa đảo, lợi dụng sự giúp đỡ có thể mang lại điều gì đó tốt lành.

* Bà nói gì với ông người quen?

- “Chính ông có lỗi. Cô bé làm ông xúc động và ông không tìm hiểu gì thêm về gia đình nó... Ở đó có hàng xóm, các tổ chức địa phương, ông có thể hỏi trước xem những người ấy có cần giúp thật không”.

Để kiểm tra, ông ta sẽ phải tách ra khỏi đoàn tham quan và ở lại thêm hai ngày.

- Chính thế. Phải chú tâm một cách NGHIÊM TÚC. Còn chúng ta thì thường muốn sửa chữa thế giới khi thể nghiệm những xúc cảm nhất thời.

* Người Ba Lan có tốt không?

- Người ta nói chung không xấu, chỉ có điều đôi khi họ thiếu kiến thức. Nếu giải thích cho họ, họ sẵn lòng thay đổi. “À, đúng vậy, bây giờ mọi thứ đều rõ ràng”.

(1): Khoảng 100 USD.

(2): Małgorzata Chmielewska, nữ tu sĩ Ba Lan nổi tiếng với các hoạt động thiện nguyện.

"Poverty porn" và chuyện lợi dụng lòng thương hại

ĐỨC HOÀNG 20/08/2014 23:08 GMT+7

TTCT - Vài năm qua, báo chí thế giới bắt đầu mổ xẻ một khái niệm gọi là “poverty porn” - một loại hình truyền thông luôn đi với vỏ bọc nhân văn nhưng bên trong chứa đầy mặt trái.

Một hình ảnh thường thấy trong những môtip quảng cáo phổ biến mà Srivastava gọi là “poverty porn” - Ảnh: magazine.good.is
Một hình ảnh thường thấy trong những môtip quảng cáo phổ biến mà Srivastava gọi là “poverty porn” - Ảnh: magazine.good.is

 Camera hướng từ trên cao xuống một cô bé da màu. Cô bé đứng đơn độc trên một cánh đồng ở một nơi vô danh, nhìn về xa với ánh mắt tuyệt vọng, không bao giờ hướng mắt vào máy quay. 

Càng khổ càng tốt

Một giọng nói cất lên: “Đây là Daniela. Cô bé 9 tuổi. Cơ thể bé đang bị giày vò bởi những cơn đau do ký sinh trùng, thứ đã giết chết chị của bé, tạo ra. Nếu không có sự giúp đỡ, Daniela sẽ là người kế tiếp”. Một giọt nước mắt rơi xuống má của Daniela…

Đó là một đoạn quảng cáo điển hình mà tác giả Lina Srivastava nói rằng “mọi người dân Bắc Mỹ từ khi sinh ra đến khi lớn lên đều được xem mỗi tối”. Srivastava là một chuyên gia về truyền thông xã hội ở New York, từng tham gia các chiến dịch truyền thông cho UNICEF, UNESCO và Ngân hàng Thế giới. Và bà gọi đoạn quảng cáo ấy là “kích dục thương hại”. Những môtip quảng cáo như thế đang trở nên quá phổ biến trong thế giới hiện đại.

Không dễ dàng định nghĩa thế nào là “poverty porn”. Các chuyên gia xã hội học tạm đưa ra một giải thích “bất kỳ dạng truyền thông viết, hình ảnh, phim… khai thác tình cảnh nghèo đói nhằm làm tăng sự cảm thông để bán báo hoặc gây quỹ từ thiện hoặc để lấy danh tiếng”.

Nói đến các sản phẩm kích dục (porn), người ta thường nghĩ ngay đến tình dục. Nhưng trong mỗi con người còn những “dục” (ham muốn) mạnh mẽ khác. Lòng thương hại chính là một trong số đó.

Con người luôn có xu hướng xúc cảm rất mạnh trước những mảnh đời nghèo khổ, những đứa trẻ đói khát, những số phận gian truân. Và nếu như tình dục có một dòng sản phẩm văn hóa riêng để đáp ứng thì lòng thương hại bây giờ cũng có.

Nhà báo Mỹ Edward Behr (một cây bút lớn từng làm việc cho Time, Newsweek…) từng kể một câu chuyện nổi tiếng về một phóng viên tác nghiệp ở vùng chiến sự tại Congo trong thập niên 1960. Khung cảnh lúc ấy chỉ có những người đàn ông cầm dao rựa, phụ nữ để ngực trần và những đứa trẻ đang khóc rấm rứt. Một khung cảnh quá thông thường của châu Phi.

Tay phóng viên biết rằng mình cần phải làm gì đó để tạo ra câu chuyện kịch tính. Và anh ta cất tiếng hỏi: “Có ai ở đây từng bị hiếp và nói được tiếng Anh không?” (Anyone here been raped and speaks English?). Câu hỏi này về sau trở thành tựa một cuốn sách của Edward Behr về chủ đề “poverty porn”.

Một phụ nữ châu Phi bị hãm hiếp là câu chuyện “tốt” để kích thích lòng trắc ẩn của độc giả. Nếu có người bị chết một cách thảm thương thì thậm chí còn “tốt” hơn.

Điều mà một nhà báo khác, Jo Chandler - người chuyên theo dõi khu vực Trung Phi và Papua New Guinea, từng tiếp xúc với rất nhiều cái chết vì bệnh dịch đau đớn của người dân những nước nghèo, thú nhận tôn chỉ của báo chí bây giờ là: “Càng tồi tệ càng tốt”.

Họ cần tìm ra những nhân vật thống khổ nhất, những khía cạnh tàn tệ nhất, đôi khi không cần đại diện chính xác cho vấn đề đang được phản ánh, để miêu tả. 

Và rốt cuộc “poverty porn” trở thành một phong trào. Nó được sử dụng trong tất cả tình huống người ta cần thu hút sự chú ý (để bán báo, để đạt được mục đích quyên góp từ thiện, để lấy danh tiếng…).

Bởi vì ngoài việc đánh vào bản năng thương cảm, nó khiến người tiếp nhận thoải mái khi họ cảm thấy mình có quyền năng để giúp đỡ, tin rằng mình đã thật sự giúp đỡ người khác khi bỏ tiền làm từ thiện.

Và không có gì dễ dàng, đơn giản hơn là bỏ ra một chút tiền thay vì dấn thân vào những hoạt động cần đến sự bền bỉ, nỗ lực gấp bội để giải quyết câu chuyện gốc rễ.

(Khảo sát các bài viết trên blog về ba chủ đề từ ngày 6 đến 29-6-2014)
(Khảo sát các bài viết trên blog về ba chủ đề từ ngày 6 đến 29-6-2014)

Có khốn cùng, có chú ý

Trong thời đại của truyền thông xã hội thì đó không còn là câu chuyện riêng của các nhà báo và các tổ chức phi chính phủ.

Mỗi người đều có thể tự sở hữu kênh xuất bản riêng trên mạng xã hội, thuận tiện nhất là qua Facebook. Và rất nhiều người trong số họ hiểu rằng các nội dung gợi lòng trắc ẩn sẽ rất hiệu quả trong việc gây sự chú ý. Đôi khi tâm niệm này chỉ là vô thức. Và đó là lúc những sự sai lầm phát sinh.

Hồi giữa tháng 6, cư dân mạng lan truyền chuyện về một người đàn ông Đan Mạch đã dành rất nhiều tâm sức xây 24 cây cầu tặng các vùng xa xôi hẻo lánh ở Việt Nam, nhưng rồi đến cuối đời lại bị người Việt lừa hết tiền, sống trong cảnh nghèo túng cạnh bãi tha ma. Câu chuyện gây phẫn nộ cao trong dư luận.

Đến khi báo chí vào cuộc xác minh thì hóa ra người đàn ông nọ dù có bị lừa, có mất nhiều tiền nhưng “sự thật không hẳn như thông tin đã lan truyền” (báo PL TP.HCM ngày 12-6), và ông bà vẫn sống trong một căn nhà không đến nỗi nào. Câu chuyện lập tức nguội xuống rất nhanh chóng. 

Sau khi phát hiện ông bà không đến nỗi quẫn cùng như mô tả, những khía cạnh khác như trách nhiệm của chính quyền, khó khăn của ông bà về mặt hành chính dường như không được dư luận đoái hoài đến nữa.

Khảo sát trên mạng về số lượng các bài viết trên blog về “ông già Đan Mạch” cho thấy chủ đề này bùng lên rất nhanh trong khoảng vài ngày giữa tháng 6 và gần như biến mất sau khi báo chí xác minh (xem biểu đồ, với các chủ đề thời sự khác như “vải thiều” và “cửa khẩu” để so sánh về tính ổn định).

Người ta có quyền tự hỏi rằng nếu như ngay từ đầu, nếu câu chuyện về ông Kurt không được xoáy sâu vào khía cạnh “khốn cùng”, sự túng quẫn của ông không được cường điệu một cách chưa chính xác mà đưa với một thái độ trung dung hơn, thông tin chuẩn hơn thì liệu có tốt hơn cho dư luận và cho việc giúp đỡ vợ chồng ông?

Cho đến tận cuối câu chuyện vẫn chưa có một ai thật sự đứng ra giải thích tường tận về những khó khăn mà ông phải đối mặt.

Người ta hướng trí tò mò tới sự túng quẫn về mặt vật chất của một người nước ngoài (điều hoàn toàn trái ngược với quan niệm “hễ Tây thì không giàu cũng phải khá”), trong khi khó khăn thật sự của ông có thể nằm ở một nơi khác, như việc làm sổ đỏ cho căn nhà mà vợ chồng ông đang sống chẳng hạn.

Ở đây, cái nghèo được mô tả không đầy đủ lại trở thành thứ thuốc “kích thích” cho những status thể hiện lòng thương cảm, ái ngại, cho những sự hỗ trợ kiểu mang mì gói, nước uống đến tặng. Và khiến vấn đề tổng thể không được giải quyết.

Sự quyên góp mù quáng

Đây là một trong những khía cạnh quan trọng của các sản phẩm “poverty porn”. Nó khiến đại chúng tiếp cận sai chiều hướng của cái nghèo.

Tác giả Emily Roenigk thuộc Tổ chức World Relief viết: “Cái nghèo không chỉ bao gồm bối cảnh cá nhân, mà còn có cả hệ thống xã hội và pháp lý… Tuy nhiên, các sản phẩm poverty porn lại mô tả cái nghèo bằng những khổ đau nhìn thấy được, đến từ việc thiếu thốn vật chất. Nó khiến những hoàn cảnh phức tạp của con người trở nên dễ hiểu, dễ tiếp thu và dễ xử lý”.

Và xử lý một cách bề mặt.

Cái hại của việc “dễ xử lý” khi đứng trước một câu chuyện như thế, một nỗi thống khổ của riêng một cá nhân, chính là khi đó người ta luôn có cảm giác cách tốt nhất để giải quyết vấn đề chính là quyên góp. Đó tất nhiên không phải là cách giải quyết vấn đề.

Lật lại những trang báo có thể dễ dàng tìm thấy những cuộc quyên góp để lại hậu quả tiêu cực.

Lừa đảo từ thiện là một vấn đề không mới, nhưng trong những câu chuyện như thế người ta không nhìn thấy rằng để tiếp tay cho những kẻ lừa đảo, một bộ phận rất lớn người dùng mạng đã chia sẻ những câu chuyện thương tâm này mà không cần suy nghĩ, kiểm tra. Đó chính là hành vi phát tán “poverty porn”. 

Người ta không hề đặt ra câu hỏi: Người này là ai? Điều gì đã gây ra hoàn cảnh hiện tại của anh/chị ta? Gia đình, các mối quan hệ của anh/chị ta ra sao? Hướng giải quyết có lợi nhất cho hoàn cảnh này là gì?

Họ không cố vẽ lên một bức tranh toàn cảnh. Cái họ có là một câu chuyện đẫm nước mắt, một khía cạnh thấm đẫm thương cảm của vấn đề. Và họ phát tán nó. Những người khác quyên góp. Rồi lại tiếp tục phát tán. Nó rất ít khi được lan truyền vì một động cơ lý trí.

Tổ chức United for Sight thậm chí khẳng định “kích dục thương hại” là thứ hủy hoại nỗ lực của những người làm từ thiện đứng đắn: “Nó tạo ra tư tưởng những người nghèo là những người tuyệt vọng, không có khả năng giúp đỡ bản thân, rồi tạo ra một thứ văn hóa của chủ nghĩa gia trưởng”.

Chủ nghĩa gia trưởng (paternalism) là những hành động bởi một người, tổ chức hay quốc gia khiến một người hay tổ chức khác bị hạn chế trong tự do quyết định quyền lợi của họ.

Trong trường hợp của các sản phẩm “poverty porn”, chủ nghĩa gia trưởng được thể hiện bằng việc cả người tuyên truyền lẫn người giúp đỡ đều tự quyết định phương thức cải thiện cuộc sống của người cần giúp là các khoản tiền quyên góp trực tiếp.

Với các khoản quyên góp này, người nghèo có thể phụ thuộc, thậm chí ỷ lại vào chúng. Trong khi đó luôn tồn tại những cách hiệu quả hơn để họ tháo gỡ khó khăn, nhưng thứ này đã bị phủ nhận ngay từ đầu khi truyền thông mô tả họ trong những bộ dạng tuyệt vọng, hoàn toàn không có năng lực tự cải thiện cuộc sống.

Bạn sẽ không khó tìm thấy một câu chuyện về một người nghèo đánh mất năng lực tự quyết định số phận của họ sau những khoản tiền quyên góp, không khó để tìm thấy những cuộc tranh cãi gay gắt của những “mạnh thường quân” về việc mình có bị lợi dụng không, người nhận có sử dụng đúng mục đích không, thậm chí có nên đòi lại tiền không.

Tất cả là do ngay từ đầu họ đã tiếp cận với một thứ duy nhất là nỗi khổ chứ không phải bản thân người cần giúp.

Rất tiếc là sau những câu chuyện như thế, niềm tin về lòng tốt trong xã hội chẳng những không được bồi đắp mà còn mai một.

Bạn đang đọc trong chuyên đề "LÀM TỪ THIỆN - NHỮNG CHUYỆN DỄ VÀ KHÓ"