Tuổi cao chí càng cao

Tuổi Trẻ Cuối Tuần

Người cao tuổi không đồng nghĩa là người sống phụ thuộc và vô dụng. Người cao tuổi có thể là người có giá trị tri thức dày dặn với trải nghiệm phong phú qua năm tháng. Họ vẫn có thể tiếp tục lao động trực tiếp kiếm ra thu nhập thông qua những công việc phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và kinh nghiệm của mình.

Những người cao tuổi không nghỉ hưu

VŨ THỦY - LAN ANH 25/07/2019 22:07 GMT+7

TTCT - Bóng dáng người già lầm lũi mưu sinh khắp nơi.

Bà Ba Huệ với công việc nhặt phế liệu ở bãi rác hằng ngày. Ảnh: Mậu Trường

Mưu sinh ở tuổi “thất thập cổ lai hi”

Chạng vạng tối, ở góc cửa hàng sửa chữa máy tính trên đường Hoàng Văn Thụ (Q.Phú Nhuận, TP.HCM), cụ Dương Văn Đỉnh (ngụ Q.Phú Nhuận) lại ngồi xếp riêng chai nhựa, vỏ hộp cactông mang tới vựa phế liệu.

“80 tuổi rồi, chân yếu lết từng bước, đâu có làm gì được. Cứ hai, ba bữa cửa hàng lại cho phế liệu đem bán kiếm vài chục ngàn đồng. Trước một ký được 1.500 - 2.000 đồng, giờ chỉ còn 1.000” - cụ Đỉnh nói.

Có tới 5 người con, nhưng cụ Đỉnh không thể nương tựa vào ai bởi các con cũng sống chật vật. Chỗ dựa lớn nhất của cụ - người con thứ ba ở Q.Thủ Đức, trước đây vẫn chu cấp hằng tháng cho cụ 500.000 đồng - nay cũng không còn khi anh bị tai nạn gãy xương bả vai.

“Mình tôi ăn uống qua ngày cũng được nhưng còn có đứa cháu ngoại. Mẹ nó mất gần 5 năm. Ba nó lang bang kiếm sống bên ngoài đâu biết được - ông già kể - Hồi trẻ, tôi làm ở bộ phận khai thác không lưu trong sân bay, đất nước thống nhất, được lưu dụng 5 năm rồi ra khỏi ngành, chạy xe ôm nuôi con”.

Phía bên kia đường, chúng tôi gặp cụ bà Mai Thị Hương (79 tuổi) đang đi bán vé số buổi tối. Ở thành phố đến nay đã mười mấy năm, bà vẫn giữ giọng Phú Yên đặc sệt. “Tháng giêng vô bán, tháng ba về rồi vô lại. Ngày nào cũng năm giờ chiều đi, chín giờ về” - bà nói.

Giống như cụ Đỉnh, bà có đủ con đủ cháu nhưng ai cũng có hoàn cảnh éo le, khó khăn. Bà vào Nam, một thân một mình kiếm sống: “Một ngày bán 200 tờ chua chát lắm, nhưng đại lý cho cơm ăn. Trưa về mạnh ai nấy ăn. Nếu đi về trễ, họ ăn hết. Đại lý đó có 50 người: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; ở ngoài đó khổ họ vô hết, mấy đứa nhỏ nghỉ hè cũng theo vô bán, đông lắm”.

Ở tuổi 81, mắt đã mờ đục, tai đã lãng nên cụ ông Trần Mau chẳng đi được đâu xa để bán vé số, chỉ quẩn quanh trước một tiệm bánh ngọt trên đường Hai Bà Trưng (Q.1), ai mua thì tự lấy số và đưa tiền. Cụ bán từ 12h trưa đến 22h, được khoảng 120 tờ.

Giọng Huế của cụ vẫn còn rõ và minh mẫn: “Tui mướn nhà ở gần Thị Nghè với mấy người cùng quê. Vô đây bán 6-7 năm ni rồi. Hai đứa con gái tui làm rẫy ngoài Đắk Nông, đứa 60 tuổi, đứa 58 tuổi mà đều nghèo quá không chu cấp gì nổi. Mướn phòng trọ một tháng tám trăm, ăn uống ngoài đường. Ngày nào bán 200 tờ được 240.000 đồng”.

Trưa nắng trên 40 độ C ngày cuối tuần ở Hà Nội, cụ bà Hà Thị Ngạn - 82 tuổi, ở Quảng Xương (Thanh Hóa) - tay cắp chiếc rổ chựa đựng mấy gói tăm bông, vài chiếc dây buộc tóc, ít bấm móng tay, quanh quẩn mấy quán ăn ở khu Trần Huy Liệu, Giảng Võ.

Cụ ghé từng bàn mời mua hàng. Những người khách trong quán ăn khó chịu ra mặt. Bởi chỉ trong 20-30 phút có đến 3-4 “cửa hàng di động” như vậy ghé đến chào mời. 

Ngồi đánh giày gần chỗ mẹ quanh quẩn bán hàng là bà Hương, 52 tuổi, con gái thứ 2 của cụ Ngạn và vài đứa trẻ loanh quanh gần đó, cũng đeo rổ nhựa trước bụng. Đó là mấy thế hệ trong gia đình họ cùng kiếm sống.

“Gia đình tôi có 5 chị em, 4 gái 1 trai, nhưng con trai duy nhất của cụ đã qua đời vì bệnh ung thư năm 2018. Trong 2 năm điều trị bệnh, mọi tài sản trong nhà đều “đội nón” ra đi. 

Gia đình chúng tôi ở vùng biển, chỉ có đất ở, không có đất sản xuất” - bà Hương kể. Từ 2 năm nay, cụ Ngạn được nhận một khoản trợ cấp nhỏ của Nhà nước dành cho người từ 80 tuổi trở lên nhưng khoản tiền quá ít ỏi, thậm chí không đủ chi trả tiền ăn.

Cụ Dương Văn Đỉnh (79 tuổi, ngụ Q.Phú Nhuận, TP.HCM) sống bằng phế liệu của cửa hàng máy tính gần nhà. Ảnh: VŨ THỦY

Nương tựa đời người

Sống ở thành phố mà không có một người thân thích, nhiều người già tìm đến nương tựa lẫn nhau, khỏa lấp những thiếu vắng tình thân. Hơn 10 năm nay, ông Ẩn (71 tuổi) và bà Kiều (60 tuổi) ở cùng nhau trong một nhà trọ. Đêm, ông làm bảo vệ cho vài cửa hàng ở đường Hoàng Văn Thụ (Q.Phú Nhuận, TP.HCM).

“Hộ khẩu tui ở Phú Nhuận, đi bộ đội được cấp nhà nhưng con nó ở. Tui có ba thằng con trai nhưng không nhờ vả được gì bởi thằng làm thợ hồ, thằng bán vé số, đứa bán hàng rong. Thỉnh thoảng tui về nhà thăm cháu nhưng nó coi mình không ra gì, thấy buồn tui không muốn về nữa.

Tui với bả ở với nhau mười mấy năm, trước tôi làm thợ hồ. Tối tối tôi làm ở đây, rồi sáng về cho bả đi bán cơm tấm, đồng lương đủ lây lất qua ngày” - ông bảo.

Ông Dương Văn Minh (50 tuổi) và bà Phạm Ngọc Minh (70 tuổi) cũng nương tựa nhau suốt 10 năm nay. Phòng trọ chừng 6-7m2 của họ nằm trong một con hẻm ngoằn ngoèo trên đường Điện Biên Phủ (Q.Bình Thạnh, TP.HCM).

Dọc đường về, ông Minh ghé vào mua cho cụ bà một ly trà đào to. Cụ bà nhận ly nước đầy vui mừng. “Cụ bị lãng tai nghe không rõ. Cách đây 10 năm, tui gặp cụ ngồi lang thang ốm đau ở đường Bùi Hữu Nghĩa. Tôi đưa về chăm sóc, cụ khỏe lại thì tiếp tục bán vé số, hai chúng tôi cùng làm cũng đủ sống qua ngày” - ông Minh kể.

Bà Nguyễn Thị Đáng, 85 tuổi, huyện Đan Phượng (Hà Nội) mỗi ngày đứng ở ngã tư Nguyễn Tri Phương - Phan Đình Phùng bán chanh. Ảnh: Nguyễn Khánh

Cần “chợ việc làm” cho người cao tuổi

Bà N.T.T. - 67 tuổi, đã nghỉ “một cục” (theo chế độ 176, thanh toán bảo hiểm xã hội một lần từ đầu những năm 1990) - cho hay bà không có lương hưu, cũng chưa đến tuổi nhận trợ cấp. Trước đây, bà sống cùng gia đình người con trai, nhưng từ 5 năm nay ông bà sống riêng với chỉ một suất lương hưu của ông.

“Ông nhà tôi chỉ có hơn 3,5 triệu tiền lương nên chúng tôi vẫn phải làm thêm, ông làm bảo vệ, tôi đưa đón trẻ đến trường. Mỗi tháng, thu nhập từ công việc làm thêm này hơn 7 triệu đồng, ngoài chi trả cuộc sống, một phần nhỏ tích lũy, một phần mua thuốc chữa bệnh, một phần còn lại hỗ trợ cháu nội vì con trai tôi đã mất” - bà T. nói.

Theo bà T., khu bà ở có hơn 40 người cao tuổi, chưa đầy 1/2 trong số này có lương hưu. Số còn lại đang hỗ trợ con trông cháu hoặc tự kiếm công việc như vợ chồng bà. Năm nay, một cháu nhỏ trong số những đứa trẻ bà đưa đón đi học chuyển lên cấp học mới, bà “giảm” một khoản thu nhập hằng tháng.

“Chúng tôi chưa già hẳn, có thể làm việc gì đó kiếm thêm thu nhập nhưng không biết làm thêm việc gì, nếu có một nơi để người lớn tuổi giao dịch, tìm việc làm phù hợp thì tốt quá” - bà T. mong ước.

Đây cũng là nguyện vọng chung của nhiều người già mà chúng tôi khảo sát vì nhiều người muốn độc lập tài chính, khi già quá mới nhờ đến con cháu. Có người muốn tìm công việc vì không muốn cô đơn trong chính ngôi nhà của mình. Có việc làm khiến người già cảm thấy họ có ích và thấy tự tin hơn.

Nhưng không dễ để người già tìm được công việc phù hợp sức khỏe của mình. Vì vậy, VN đang rất cần có thêm nhiều tổ chức xã hội trợ giúp để người già có tích lũy, dành cho thời điểm cần dưỡng lão hoặc chăm sóc y tế.

Bảo hiểm xã hội VN và các cơ quan chức năng đang tính đến việc trợ cấp cho người già từ 75 tuổi (không có lương hưu và các trợ cấp khác) từ năm 2030. Nhưng chặng đường từ nay đến đó còn rất xa và khoản trợ cấp ấy chắc chắn không nhiều…■

Theo kết quả nghiên cứu do Bảo hiểm xã hội VN phối hợp với một tổ chức quốc tế thực hiện và công bố năm 2018, trong số 12 triệu người già, số người được hưởng lương hưu mới khoảng 2,3 triệu, trên 70% người cao tuổi không có tích lũy vật chất, 2,3% gặp khó khăn tài chính, trên 70% người cao tuổi vẫn đang phải tự kiếm sống cùng với sự hỗ trợ của con cháu và gia đình, bên cạnh khoản trợ cấp xã hội rất nhỏ dành cho các cụ từ 80 tuổi trở lên.

Bãi rác Phú Hưng (TP Bến Tre, tỉnh Bến Tre) đã đóng cửa vài năm nhưng bà Nguyễn Thị Huệ, 78 tuổi, vẫn đều đặn đến đây nhặt ve chai hằng ngày. “Nếu không làm thì không có tiền mua gạo ăn” - bà nói.

Đời bà Huệ gắn với bãi rác Phú Hưng từ sau năm 1975. Hơn 2 năm nay, từ khi tỉnh đóng cửa bãi rác, nguồn phế liệu không còn dồi dào như trước, bà phải dùng cuốc đào bới xuống các lớp rác liên tục mỗi ngày tám tiếng, kiếm được khoảng 100.000 đồng.

Số tiền này để lo bữa ăn cho vợ chồng bà trong ngày và trả nợ cho căn nhà được cất từ nhiều năm trước. “Tôi không muốn làm phiền con cháu. Tụi nó cũng phải lo cuộc sống riêng. Tôi còn sức thì còn làm để tự lo cho mình và chồng. Khi nào quản lý bãi rác không cho làm nữa, tôi sẽ chuyển qua bán vé số dạo” - bà nói.

Mậu Trường

Ở phố Trần Hưng Đạo (thành phố Hải Dương), người dân nơi đây quen với một cụ ông tối tối về nghỉ dưới mái hiên của những trụ sở trên phố này. Ông nói mình tên N.N.T., 81 tuổi, nhà ở huyện Thanh Miện (Hải Dương), cụ bà năm nay 74 tuổi.

“Chúng tôi có ba người con đều đi làm ăn xa. Ở nhà có mấy sào ruộng nhưng chúng tôi tuổi cao không làm được nữa, trả lại cho xã. Tôi có khoản trợ cấp 270.000 đồng của người cao tuổi nên dành lại cho vợ, tôi lên thành phố kiếm sống” - ông nói. Kiếm sống với ông là tìm đến một góc chợ trong thành phố ngồi đó, ai cho gì nhận nấy.

“Tôi chỉ có cái bao đựng bộ quần áo, cái áo mưa và mấy liều thuốc cảm. Tôi lên thành phố chừng 2-3 ngày mỗi lần, sau đó lại về nhà một hôm rồi đi tiếp. Tiền con cái gửi về biếu tôi cũng không dám tiêu. Còn sức thì tôi cứ đi thế này, được đồng nào tiêu đồng ấy” - ông nói.

Xuân Long

Người cao tuổi tham gia lao động: Chuyện của Nhật Bản khác gì chuyện của Việt Nam?

FUSHIHARA HIROTA 23/07/2019 21:07 GMT+7

TTCT - Người cao tuổi không đồng nghĩa là người sống phụ thuộc và vô dụng. Người cao tuổi có thể là người có giá trị tri thức dày dặn với trải nghiệm phong phú qua năm tháng. Họ vẫn có thể tiếp tục lao động trực tiếp kiếm ra thu nhập thông qua những công việc phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và kinh nghiệm của mình.

Nhiều người cao tuổi ở Nhật Bản tiếp tục làm việc khi đã qua tuổi hưu (ẢnH: Japan Times)

Việt Nam và Nhật Bản tuy còn chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế và mức độ già hóa dân số, nhưng với những nền nếp văn hóa và gia đình tương đối gần, có thể là một so sánh thú vị về tình trạng chung không tránh khỏi của tương lai: rất nhiều người qua tuổi hưu vẫn sẽ (phải) tiếp tục đi làm.

Chuyện của Nhật Bản

Dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản (15-64 tuổi) tăng liên tục từ khi kết thúc Thế chiến II, đạt đỉnh vào năm 1995 với 87,26 triệu/125,4 triệu người. Nhưng sau đó, dân số thuộc độ tuổi này không ngừng giảm đi.

Theo điều tra tổng dân số vào năm 2005, nhóm dân số đó ở Nhật chỉ còn 77,78 triệu/127,8 triệu người và sẽ còn tiếp tục giảm cùng đà suy giảm tổng dân số. Chính phủ Nhật Bản dự đoán vào năm 2040, nhóm dân số này chỉ còn khoảng 60 triệu/107,8 triệu người và số người cao tuổi sẽ là khoảng 39 triệu.

Một xã hội dân số tăng lên, đặc biệt khi nền kinh tế tăng trưởng cao, thì nhu cầu gia tăng, thị trường mở rộng, kéo theo sản xuất mở rộng, tổng sản lượng quốc nội sẽ tăng. Trong quá trình này, trình độ và mức độ phổ cập phúc lợi y tế được nâng cao, chế độ an sinh xã hội như lương hưu được kiện toàn hơn. Kếu quả là dân số người già tăng lên.

Kinh tế Nhật Bản đã trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao sau chiến tranh, nhưng sau những năm 1990, Nhật Bản đã và đang gặp khó khăn về tăng trường kinh tế. Đến nay, dân số Nhật Bản liên tục giảm, nhu cầu vì thế cũng giảm, thị trường bị thu nhỏ lại, nên vấn đề đặt ra là làm sao để nâng cao năng suất bằng lực lượng lao động ngày càng ít đi.

Bên cạnh đó, chế độ an sinh xã hội của Nhật Bản cũng đang gặp khó khăn. Chế độ lương hưu dựa chủ yếu vào đóng góp của những người còn trong tuổi lao động. Họ sẽ phải đóng quỹ lương hưu do nhà nước và các doanh nghiệp quản lý, và thực tế, số tiền đóng góp đó được sử dụng luôn cho việc chi trả lương hưu hiện tại.

Trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao, lực lượng lao động dồi dào, số tiền đóng góp cũng nhiều hơn, nhưng khi dân số lao động giảm đi số người cao tuổi tăng lên, thì việc chi trả vượt khỏi khả năng của các quỹ lương hưu, khi mà ngay hiện giờ, tiền lương hữu vốn đã không chắc đảm bảo được toàn bộ cuộc sống cho người cao tuổi.

Trước thực tế đó, nhà nước Nhật Bản đang xúc tiến và khuyến khích việc tạo ra cơ hội cho người cao tuổi có thể tham gia lao động.

Quốc hội Nhật Bản đã thông qua bộ luật ổn định việc làm cho người cao tuổi vào năm 2013. Luật này yêu cầu mọi doanh nghiệp áp dụng tuổi về hưu với tuổi không trẻ hơn 60, đồng thời phải thực hiện một trong ba biện pháp: (1) xây dựng chế độ tuổi về hưu là 65; (2) có biện pháp duy trì việc làm đến 65 tuổi; và (3) bãi bỏ chế độ về hưu.

Bện cạnh đó, chính phủ trợ cấp cho các doanh nghiệp tuyển dụng người cao tuổi thông qua các trung tâm nhà nước về ổn định việc làm, cũng như cho những doanh nghiệp có chế độ bảo đảm việc làm cho nhân viên tuổi 65. Đến nay, phần lớn doanh nghiệp Nhật Bản đều đã xây dựng chế độ làm việc cho đến 65 tuổi.

Việc khuyến khích người cao tuổi tham gia lao động ngoài góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn với phát triển kinh tế, chế độ an sinh xã hội, còn có mặt tích cực tạo ra sự hài lòng và khẳng định bản thân của người cao tuổi.

Chuyện Việt Nam  

VN cũng đã bắt đầu quan tâm những hệ quả liên quan đến dân số già. Thực tế, dân số VN đã bắt đầu “già” đi.

Bài “Xu thế già hóa dân số ở nước ta hiện nay và yêu cầu nâng cao chất lượng sống của người cao tuổi” của Tạp chí cộng sản online ngày 10-9-2018 nêu: “Một nước có thu nhập trung bình thấp, nhưng Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ rất nhanh. Chúng ta đang trong giai đoạn cuối của thời kỳ cơ cấu dân số vàng, bước đầu vào giai đoạn già hóa và cần phải có kế hoạch để ứng phó với việc già hóa dân số. Việt Nam nằm trong số 10 nước có tốc độ già hóa nhanh nhất trên thế giới.

Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và hiện có khoảng 10,1 triệu người cao tuổi, chiếm 11% dân số. Riêng số người từ 80 tuổi trở lên là 2 triệu người. Dự báo đến năm 2030, tỷ trọng người cao tuổi Việt Nam chiếm 17% và năm 2050 là 25%”.

Thời kỳ dân số vàng (dân số trẻ nhiều, với tháp dân số hình kim tự tháp) là thời kỳ tốt nhất cho phát triển kinh tế, bởi thu nhập quốc gia tăng và chi phí an sinh xã hội chưa lớn. VN đang ở giai đoạn cuối của thời kỳ này, điều dự báo những khó khăn phía trước.

Thêm nữa, VN chưa thực sự trải qua giai đoạn phát triển kinh tế thật sự thần tốc, công nghiệp chưa đạt tới trình độ các nước phát triển, cơ hội việc làm cho người trẻ cũng không phải là quá rộng rãi và tỷ lệ thất nghiệp thực chất vẫn cao, khiến đất nước đối mặt với nguy cơ “chưa giàu đã già”.

Trước thực tế này, giải pháp cơ bản vẫn là đẩy mạnh phát triển kinh tế, bao gồm lĩnh vực công nghiệp, nơi sẽ tạo nhiều cơ hội việc làm cho dân số trong độ tuổi lao động, giúp tăng thu nhập quốc dân, bảo đảm ngân sách hoặc quỹ an sinh xã hội cho người cao tuổi.

Bên cạnh đó, nhà nước và cả khối tư nhân cần thực hiện những biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất (giá trị gia tăng của sản phẩm), tạo ra sự đa dạng về nguồn lực, xây dựng nguồn vốn xã hội-nhân lực chất lượng cao. Khuyến khích người cao tuổi tham gia lao động cũng là yếu tố tích cực trong quá trình đó.

 

Người cao tuổi không phải người sống phụ thuộc

Nhiều người có suy nghĩ người cao tuổi đa số sống nhờ vào sự trợ giúp về mặt kinh tế của con cái. Định kiến về họ là sức khỏe kém, làm những công việc không tạo ra thu nhập trực tiếp (nội trợ, chăm sóc con cháu…), trong bối cảnh lương hưu và trợ cấp xã hội còn thấp.

Tuy nhiên, người cao tuổi không đồng nghĩa là người sống phụ thuộc và vô dụng. Người cao tuổi có thể là người có giá trị tri thức dày dặn với trải nghiệm phong phú qua năm tháng. Họ vẫn có thể tiếp tục lao động trực tiếp kiếm ra thu nhập thông qua những công việc phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và kinh nghiệm của mình.

Tạo ra một môi trường lao động với những ngành nghề phù hợp để người cao tuổi có thể tiếp tục cống hiến, tạo ra giá trị thặng dư cho kinh tế, mà trước hết là để tạo ra thu nhập cho chính họ, bởi thế, là điều rất nên làm.

Tuy nhiên, cần thấy rằng lương hưu và các chế độ an sinh xã hội với người cao tuổi vẫn lấy nguồn chính là đóng góp của dân số trong độ tuổi lao động. Theo đó, số lượng cũng như giá trị đóng góp của bộ phận này càng lớn thì nguồn thu quỹ càng cao, mức hưởng của người cao tuổi cũng cao theo.

Muốn giải quyết triệt để và lâu dài an sinh xã hội cho người cao tuổi, trước hết phải tăng cường việc làm cho lao động trẻ, thông qua đẩy mạnh phát triển kinh tế và công nghiệp, tạo ra nhiều ngành nghề với thu nhập cao, từ đó tạo nguồn thu chính dồi dào đảm bảo quỹ lương hưu.

Bản chất của xây dựng cơ chế lương hưu, an sinh xã hội là trách nhiệm của nhà nước. Dù việc hỗ trợ người cao tuổi đóng góp cho quá trình này là tích cực, đó không phải là giải pháp hiệu quả lâu dài. Việc người cao tuổi tham gia lao động chỉ có tính chất khuyến khích, chứ không nên có tính áp đặt, bắt buộc để nhà nước “nhẹ gánh” hơn trong vấn đề an sinh.

Đi làm không chỉ vì thu nhập

Tại Nhật Bản, người cao tuổi có thể phải đi làm vì lý do kinh tế khó khăn, vì phát triển kinh tế vi mô hay chế độ an sinh xã hội gặp vấn đề, nên việc người cao tuổi lao động không chỉ là những câu chuyện màu hồng. 

Tuy nhiên, sự thật là nhiều người cao tuổi muốn đi làm. Rất nhiều người tích cực tham gia hoạt động xã hội, sinh hoạt cộng đồng, làm thiện nguyện cho các tổ chức phi chính phủ… Với họ, đó là cách để khẳng định bản thân, để tìm được niềm vui cho cuộc đời.

Giá trị cuộc sống không phải ai cũng giống nhau, nên cũng khó có thể cho rằng người cao tuổi cứ nghỉ ngơi ở nhà để con cháu chăm bẵm mỗi ngày là “sướng”, nhưng cũng không thể áp đặt là người cao tuổi cứ phải tham gia lao động, hoạt động xã hội thì mới “ý nghĩa”.

Dù là người cao tuổi hay trẻ tuổi, thì quyền tự do thụ hưởng các giá trị văn hóa, quyền tự do được tìm kiếm các hoạt động, công việc phù hợp với niềm vui của bản thân là như nhau.

Nếu xây dựng được một xã hội dung nạp, biết chấp nhận và tạo điều kiện cho tự do, tự chủ và tự lựa chọn cá nhân nói chung, thì bản thân người cao tuổi cũng sẽ hưởng lợi như mọi công dân khác.

 

 

Tuổi già, tuổi đổi mới tư duy

CHIÊU VĂN 23/07/2019 17:07 GMT+7

TTCT - Năm 1965, André-François Raffray, luật sư 47 tuổi ở miền nam Pháp, đạt được một thỏa thuận tưởng chừng rất khôn ngoan. Ông thuyết phục được một góa phụ 90 tuổi sống trong một căn hộ ở thành phố Arles là ông sẽ trả cho bà 2.500 franc (khoảng 500 USD lúc đó) mỗi tháng tới khi bà qua đời. Đổi lại, ông sẽ là người thừa kế căn hộ đó.

Bà Jeanne Louise Calment

30 năm sau, Raffray đã chết, còn bà góa phụ Jeanne Louise Calment vẫn sống khỏe. Phải tới năm 122 tuổi bà mới qua đời, được ghi nhận là người sống lâu nhất thế giới và gia đình Raffray đã trả bà số tiền gấp đôi giá trị căn nhà.

Tư duy già

Đánh giá thấp tuổi thọ một người có thể dẫn tới nhiều rắc rối như thế và không chỉ trong các hợp đồng cá nhân, mà cả với chính quyền và các tổ chức bảo hiểm hưu trí, quỹ lương hưu và bảo hiểm y tế.

Các quỹ hưu trí và bảo hiểm xã hội hứa hẹn một khoản tiền lương hưu cố định đang ngày càng trở thành những dự án rủi ro lớn khi tuổi thọ kỳ vọng của dân chúng ngày một cao.

The Economist, trong chuyên đề đặc biệt về người cao tuổi số ngày 8-7-2017, chỉ ra rằng “để thích nghi với những thay đổi đó, cả ngành tài chính sẽ cần một cuộc cách mạng”.

Tờ báo nhận định trước tiên, những nhà hoạch định sẽ phải tư duy lại về mô hình chu kỳ cuộc đời ba giai đoạn cứng nhắc từ trước tới giờ mà hầu hết các sản phẩm tài chính cũng như chính sách với người cao tuổi dựa vào.

Thứ hai là việc giải bài toán khó của hai vấn đề đối lập và phức tạp như nhau: tiết kiệm không đủ khi còn làm việc và tiết kiệm thái quá trong tuổi già. 

Việc chủ lao động và người lao động tiết kiệm không đủ cho “hưu kỳ” gây ra sức ép lớn lên nguồn lực công, nhất là ở những nước còn nghèo và già hóa dân số nhanh - như VN. Trong khi tiết kiệm thái quá lúc về hưu, một khi lượng người nghỉ hưu đủ lớn trong nền kinh tế có thể tác động tiêu cực lên tăng trưởng tiêu dùng.

Cuối cùng, các kế hoạch tài chính hưu kỳ cần cách tiếp cận sáng tạo hơn với tài sản mà người cao tuổi tích tụ được trong quá trình lao động, bao gồm căn nhà mà họ sống, điều cho tới giờ hầu như chỉ có vai trò duy nhất: để ở.

“Trong một cuộc đời nhiều giai đoạn, ý tưởng nghỉ hưu ở tuổi 65 và sống nhờ tiền hưu trí giờ đã lỗi thời” - Alistair Byrne thuộc Công ty quản lý tài chính State Street Global Advisors nói với The Economist.

Khách hàng của Byrne, nhiều người có ý định sẽ làm việc sau tuổi hưu, giờ đều cần một kế hoạch linh hoạt và thu nhập chắc chắn hơn với các khoản hưu bổng.

“Điều này vẫn chưa rõ ràng với lĩnh vực bảo hiểm xã hội và hưu trí truyền thống, vốn vẫn nhìn nhận một đời người như ba giai đoạn cố định” - Andrew Scott của Trường Kinh doanh London phân tích.

Rất nhiều người đơn giản là tiết kiệm không đủ. Khoảng 40% người Mỹ sắp tới tuổi hưu không hề có một khoản tiết kiệm nào. Ở Anh, 20% phụ nữ và 12% nam giới tuổi 55-65 không có tài khoản tiết kiệm hưu trí, theo Aegon.

Trong hoàn cảnh đó, hầu hết người lao động ngày nay lại cần nhiều tiền tiết kiệm hơn so với cha mẹ của họ, vì tính trung bình họ sẽ sống lâu hơn. Một thực tế trớ trêu: một cách nhất quán, họ đánh giá quá thấp việc họ sẽ sống lâu ra sao và đánh giá quá cao việc khoản tiết kiệm của họ sẽ duy trì được lâu tới mức nào.

Tình hình căng thẳng tới mức một số nước có dân số già, như Đan Mạch, Anh hay Hà Lan, đã ít nhiều quy định một khoản tiết kiệm hưu trí là bắt buộc.

Phụ thuộc vào việc người ta sống ở đâu, kiếm được bao nhiêu và có người thân sẵn sàng chăm sóc mình khi xế chiều hay không, một trong những rủi ro tài chính lớn nhất với người cao tuổi là chi phí y tế vào cuối đời.

Một người Mỹ 50 tuổi có hơn 50% khả năng sẽ kết thúc cuộc đời trong một nhà dưỡng lão, theo ước tính của Tổ chức nghiên cứu RAND. Ở Anh, 10% những người trên 65 tuổi có nguy cơ đối mặt với chi phí y tế 100.000 bảng (gần 3 tỉ đồng) trở lên vào cuối đời.

Hầu như mọi quốc gia đều cần một chương trình công tư hợp tác cho những chi phí chăm sóc y tế kiểu đó, nhưng các lựa chọn với mỗi cá nhân cụ thể nhiều khi lại rất hạn hẹp. Một trong những công cụ rất rõ ràng và đã được áp dụng ở nhiều nước phương Tây là một khoản “trả góp ngược”.

Tại các quốc gia phát triển, một phần rất lớn tài sản của những gia đình thu nhập trung bình và thấp là căn nhà, điều khiến khi chủ sở hữu căn nhà đó bước sang tuổi già, họ có thể không hề nghèo về tổng tài sản nhưng vẫn khó khăn kiếm các khoản tiền mặt chi phí hằng tháng.

Khoản trả góp ngược cho phép họ biến căn nhà thành một dòng thu nhập nữa lúc về hưu. Nhưng ngay cả ở Mỹ, công cụ này vẫn còn ít được dùng tới: không tới 49.000 các khoản trả góp ngược được bán ra vào năm 2016 và chỉ khoảng 10 ngân hàng có dịch vụ này.

Với tư duy coi trọng đất đai, nhà cửa và quyết chí phải để lại căn nhà cho con cháu ở hầu hết gia đình VN hiện giờ, có thể hình dung phương pháp này còn khó triển khai ra sao ở VN.

Nhưng sống trẻ

Xếp đặt các kế hoạch tài chính linh hoạt hơn cho tuổi già, ở những quốc gia xem trọng các truyền thống gia đình, đặt nặng sự hi sinh của cha mẹ cho con cái và lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ - như VN, bởi thế, đòi hỏi sự đổi mới về tư duy.

Sự tự do và linh hoạt của cả hai phía sẽ lớn hơn nhiều nếu con cái không nghiễm nhiên coi tài sản của cha mẹ cũng là của mình (chiều ngược lại, cha mẹ không nghiễm nhiên coi con cái phải có nghĩa vụ chăm sóc, là điều còn khó chấp nhận ở VN, nhưng cũng đã đến lúc nêu ra một cuộc tranh luận như thế).

Một thế hệ người Việt trưởng thành và lao động trong giai đoạn sau đổi mới, khi kinh tế tăng trưởng cao và đất nước dần thoát khỏi tình trạng khó khăn, hiện sắp tới tuổi hưu.

Dù không có thống kê chính thức, họ chắc chắn sống lâu hơn (UNDP cho biết tuổi thọ kỳ vọng trung bình của người VN năm 1985 là 64 tuổi, trong khi năm 2018 là 73,5, theo Tổng cục Thống kê), khỏe mạnh hơn và có thu nhập tích lũy để chi tiêu nhiều hơn hẳn các thế hệ trước. Họ sẽ thấy trẻ trung hơn nhiều so với những bậc trưởng thượng của mình ở cùng độ tuổi.

Các quy định của truyền thống vẫn còn ràng buộc người cao tuổi VN nhiều trong những vai trò đạo mạo đôi khi khiến cuộc sống trở nên kém phần thú vị, một rào cản tâm lý nữa cần vượt qua.

Để dễ hình dung sự khác biệt, hơn 40% du khách đăng ký các tour du lịch mạo hiểm ở Mỹ là trên 50 tuổi, theo Hiệp hội Du lịch mạo hiểm quốc gia.

Ở Anh, người thuộc độ tuổi 65-74 chi tiêu nhiều nhất cho du lịch và thay vì các chuyến đi du thuyền hay “tour cho người già”, họ đòi hỏi hành động, từ thám hiểm Bắc cực tới du lịch văn hóa ở châu Á.

Ban nhạc U80 The Rolling Stones vẫn cháy hết mình trên sân khấu. Ảnh: Reuters
Ban nhạc U80 The Rolling Stones vẫn cháy hết mình trên sân khấu. Ảnh: Reuters

Tháng 8-2019 này dự kiến là sô diễn khép lại 2 năm No Filter Tour của ban nhạc rock The Rolling Stones, bắt đầu từ ngày 9-9-2017 ở Hamburg, Đức.

Nếu vào trang chủ của ban nhạc này (https://www.rollingstones.com/live), bạn sẽ thấy một lịch diễn dày đặc 4 ngày một sô suốt tháng 7 và 8 ở các thành phố khắp nước Mỹ. Điểm đặc biệt của ban nhạc: ca sĩ hát chính Mick Jagger năm nay… 75 tuổi và tuổi thọ trung bình của cả ban nhạc 4 người hiện là… 74. Rất nhiều người hâm mộ nhiệt thành nhất, thật dễ hiểu, cũng xấp xỉ tuổi đó. Một lối sống như thế, tất nhiên, còn khó hình dung ở VN.

Nếu biết rằng vào năm 1950 tuổi thọ trung bình của ông bà chúng ta chỉ là gần 47 tuổi (UNDP), thì rõ ràng VN đã tiến được những bước rất dài trong việc cải thiện chất lượng sống cho người dân. 

Giờ thì thử thách đặt ra là làm sao biến những năm tháng sống dài hơn đó là một phúc lành thật sự, chứ không chỉ là mối lo canh cánh trong lòng về việc trở thành một gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Mục tiêu đấy đòi hỏi sự hoạch định đúng đắn từ Nhà nước, sự sáng tạo của các doanh nghiệp tư nhân và quan trọng không kém, đổi mới về tư duy với tuổi già của từng cá nhân.■

Công nghệ ngày nay cũng giúp tuổi già dễ chịu hơn nhiều so với quá khứ. Ngoài các công nghệ và tiến bộ y tế hỗ trợ người già, nhiều nghề nghiệp mà kinh nghiệm và sự cẩn thận quan trọng hơn sức vóc thể chất hay tư duy lanh lẹ như luật sư, kế toán viên, giáo viên… nay đều có thể làm từ xa. 

Nền kinh tế chia sẻ cũng mang tới cơ hội cho người cao tuổi. Lấy ví dụ, nhóm chủ nhà trên 60 tuổi là nhóm tăng trưởng nhanh nhất của Airbnb, theo The Economist

Còn mạng xã hội mang tới một nơi an ủi tuổi già mới: hơn 1/3 người Mỹ trên 65 tuổi dùng mạng xã hội và 64% ở độ tuổi 50-65, theo Pew Research. 

Ở VN, Vloger 58 tuổi vừa đạt 1 triệu lượt đăng ký trên YouTube, bà Tân, phải chăng cũng là một ví dụ cho “tuổi già kiểu mới”?

Chuẩn bị cho hàng chục năm sau từ bây giờ

LAN ANH (thực hiện) 19/07/2019 18:07 GMT+7

TTCT - Theo ông Giang Thanh Long - viện trưởng Viện chính sách công và quản lý (ĐH Kinh tế quốc dân), chuyên gia nghiên cứu về cuộc sống của người già ở Việt Nam, Việt Nam đang chuẩn bị cuộc điều tra quốc gia lần thứ 2 về người cao tuổi (điều tra lần đầu thực hiện năm 2011). “Có rất nhiều thay đổi so với cách đây 10-20 năm trong đời sống của người cao tuổi Việt Nam” - ông Giang nói với Tuổi Trẻ Cuối Tuần.

Ông Giang Thanh Long. -Ảnh: X.Long
Ông Giang Thanh Long. -Ảnh: X.Long

Trong số những thay đổi, ông thấy điểm nào là thay đổi đáng kể nhất?

- Đời sống của người cao tuổi Việt Nam đã thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, tỉ lệ người già phải sống ở mức nghèo giảm rất mạnh, đời sống tinh thần tốt hơn. Nhưng đồng thời có một xu hướng không tốt: các bệnh không lây nhiễm mãn tính như xương khớp, tiểu đường, ung thư... tăng nhanh.

Về an sinh xã hội, trước đây tỉ lệ người cao tuổi có lương hưu và trợ cấp xã hội rất thấp, chỉ hơn 20%. Nhưng 5-7 năm gần đây, gần 60% người cao tuổi có lương hưu hoặc các loại trợ cấp.

Tuy thế, vẫn chưa bao phủ hết 12 triệu người cao tuổi Việt Nam, và gần 1/2 trong số này không có lương và hình thức trợ cấp nào. Đời sống người cao tuổi cũng khác nhau giữa các vùng miền, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, nông thôn vẫn rất nhiều người gặp khó khăn.

Một khảo sát cho thấy tỉ lệ người cao tuổi vẫn phải làm việc (tạo ra thu nhập để kiếm sống) rất cao (44%), ông thấy chuyện này có gì bất thường?

- Ở nhiều quốc gia có thị trường lao động cho người cao tuổi dựa trên nền tảng công nghệ, có tổ chức đứng ra bảo vệ, có thông tin minh bạch, và vì vậy dễ dàng cho người cao tuổi tham gia lao động hơn.

Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam đã tăng, chúng ta đang tiến đến mô hình như các nước phát triển: người già nhiều hơn, con cái ít sống gần bố mẹ hơn, người cao tuổi cũng chuyển dịch theo hướng sống gần chứ không sống cùng con cái, con cái quan tâm cha mẹ bằng cách gửi tiền (chi trả chi phí chăm sóc) hoặc gọi điện thăm hỏi, việc gặp mặt trực tiếp giảm đi.

Đây là bài toán lớn và vai trò an sinh xã hội của Chính phủ cực kỳ quan trọng. Khi tỉ lệ người cao tuổi tăng, người cao tuổi cũng có nhu cầu làm việc, bởi làm việc cũng là cách giúp họ giảm chứng trầm cảm tuổi già. Tuy nhiên điều cần làm là tạo ra một thị trường lao động minh bạch, phù hợp sức khỏe và khả năng của người cao tuổi.

 

Tuổi thọ bình quân đang tăng nhưng tuổi thọ khỏe mạnh của người cao tuổi Việt Nam lại thấp, điều đó cho thấy việc tăng thời gian làm việc chính thức so với hiện nay có thể là không hoàn toàn phù hợp. Ông nghĩ sao về điều này?

- Dự báo của Tổng cục Thống kê và Liên Hiệp Quốc đều cho rằng Việt Nam là 1 trong 10 nước già hóa dân số nhanh nhất thế giới, trong hoàn cảnh thu nhập bình quân đang ở ngưỡng trung bình thấp.

Tuổi thọ bình quân của Việt Nam tương tự Malaysia, Thái Lan, những nước có thu nhập bình quân cao hơn. Nhưng tuổi thọ khỏe mạnh (tuổi thọ trừ đi số năm sống không khỏe) ở các nước khác nhau. Ở Malaysia, những năm không khỏe của người cao tuổi là 6% so với tuổi thọ bình quân, Thái Lan là 10%, còn ở Việt Nam tới 15%.

25% thời gian sống của người cao tuổi Việt Nam là sống chung với bệnh tật. Nếu nâng tuổi hưu như đề xuất từ 1-1-2021 thì còn rất nhiều việc phải làm, để một người trên 60 tuổi dễ dàng tìm việc mới, tiếp tục đóng góp phù hợp năng lực và nguyện vọng, chứ không phải là kéo dài tuổi hưu ở cơ quan hiện tại.

Về chính sách dành cho người cao tuổi hiện nay, ông thấy có gì bất cập?

- Chúng ta tự hào là chính sách gì cũng có, bộ ngành nào cũng có: Bộ Xây dựng có chính sách cho các công trình để phù hợp người khuyết tật, người cao tuổi; Bộ LĐ-TB&XH có chính sách trợ cấp cho người già; Bộ Y tế vừa có quy định về phát triển hệ thống lão khoa, có thông tư 35 yêu cầu kiểm tra sức khỏe cho người già; Bộ VH-TT&DL có chính sách mừng thọ, chúc thọ người cao tuổi...

Như thế, có thể nói chúng ta có một hệ thống “lưới” về chính sách, nhưng thực hiện yếu. Chính sách nhiều và chồng chéo, hệ thống công nhiều chính sách, nhưng nhiều chính sách còn lỗ hổng. Với hệ thống tư thì nhiều chỉ tiêu khó thực hiện: mỗi người cao tuổi cần nhà bao nhiêu mét vuông dưỡng lão/bảo trợ xã hội, số mét vuông ấy đã bao gồm khu vệ sinh, khu vui chơi hay chưa... Tức là quy định có nhưng áp dụng khó.

Tôi có nghe một số doanh nghiệp tư nhân tính: đầu tư một cơ sở dưỡng lão cho 50 cụ tốn 85-100 tỉ đồng. Trong khi các trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước đất mênh mông nhưng tỉ lệ sử dụng rất ít, nhưng nếu muốn hợp tác đối tác công - tư để xây nhà dưỡng lão thì lại... chưa có quy định.

Cái nắm tay thân ái của một cụ bà với nhân viên nhà dưỡng lão. Ảnh: L.Anh

Theo ông, nên sắp xếp lại các trung tâm trên sao cho hợp lý, khi tới đây số người cao tuổi tăng?

- Chủ yếu là sắp xếp nguồn lực, đất đai hợp lý hơn. Tôi có lần đến huyện Vũ Thư (tỉnh Thái Bình), chứng kiến trong cùng một khu dưỡng lão, một bên là cơ sở bảo trợ xã hội của nhà nước, một bên là khu vực dịch vụ với sự khác biệt rất rõ.

Đó là sự khởi đầu nhen nhóm của mô hình hợp tác công - tư, dịch chuyển nguồn lực. Trước đây trại dưỡng lão này rệu rã, nay phòng ốc đã khác. Bên dịch vụ 24/24 giờ có y tá phục vụ, bên nhà nước chỉ có hai nhân viên nhưng có khi phải phục vụ hàng chục người cao tuổi, có cụ bị thương tật.

Đang có hai hình ảnh tương phản: trung tâm của nhà nước rẻ nhưng cơ sở vật chất tệ, có trung tâm 500 người mà nguồn nước sinh hoạt phụ thuộc hoàn toàn vào nước mưa. Thực tế đã có những kết hợp, có trung tâm tư đến hỗ trợ trung tâm bảo trợ xã hội nhà nước huấn luyện nghiệp vụ chăm sóc người cao tuổi, nhưng đó mới là cách hợp tác mang tính cá nhân.

Chúng ta cần một chính sách kết hợp công - tư hợp lý. Đời sống của người cao tuổi trong vài chục năm tới sẽ như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào sự chuẩn bị của chúng ta hiện nay. Ở Nhật Bản, từ những năm 1960 đã có chính sách hỗ trợ/bảo trợ bảo hiểm sức khỏe cho người già. Hàn Quốc những năm 1980 cũng đã có chính sách này.■

 

Ông Nguyễn Văn Tân (nguyên phó tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục Dân số - kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế):

Mỗi người nên chuẩn bị cho tuổi già của mình

Có 6 yêu cầu quan trọng xung quanh công tác dân số, bao gồm: duy trì mức sinh thay thế, đưa tỉ số giới tính khi sinh trở về mức cân bằng, duy trì lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, phân bổ dân số hợp lý (gia tăng tỉ lệ dân số sống ở đô thị), nâng cao chất lượng dân số. Thực hiện những yêu cầu này là rất khó.

Có ý kiến cho rằng những năm qua việc giảm chênh lệch chỉ số giới tính khi sinh và một số chính sách thích ứng với già hóa dân số chúng ta làm chưa hiệu quả. 

Việc thích ứng với tình trạng dân số già phải nói thật là chúng ta đang thiếu cả về chính sách lẫn cơ sở vật chất. Ngay vỉa hè thiết kế cũng chưa phù hợp để người già có thể đi lại một mình, không cần con cháu dìu đỡ.

Lợi thế của giai đoạn dân số vàng sẽ kéo dài đến khoảng năm 2037 - 2038. Những năm vừa qua, chúng ta đã tận dụng được lợi thế dân số. 

Có người nói là tận dụng vì mức lương thấp, nhưng nếu không có lợi thế ấy thì chúng ta cũng không thu hút được nhiều đầu tư như vậy, từ đó lao động có công ăn việc làm.

Nhưng ở giai đoạn mới thì phải có những thay đổi để tận dụng hiệu quả giai đoạn này, không thể trông chờ mãi vào lợi thế lương thấp. 

Tôi cho rằng các mấu chốt phải là chăm sóc về sức khỏe, người dân, người lao động khỏe mạnh mới làm tốt được.

Ngoài ra chính sách về đào tạo, người lao động phải được đào tạo nghề, có tay nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động. 

Bên cạnh đó là chính sách an sinh xã hội cho người lao động, đảm bảo lao động ở khu vực phi chính thức cũng có sự chuẩn bị cho tuổi già của mình, từng người có chuẩn bị cho cá nhân là cách bền vững nhất.

L.Anh ghi

VN thiếu bệnh viện lão khoa

XUÂN LONG (thực hiện) 17/07/2019 22:07 GMT+7

TTCT - “Hiện nay cả nước chỉ có một bệnh viện đầu ngành chăm sóc cho người cao tuổi - Bệnh viện Lão khoa trung ương. Ở các tỉnh, theo thống kê mới nhất, chỉ khoảng 20% các bệnh viện tỉnh có khoa lão khoa, chủ yếu tập trung ở tỉnh có dân số đông. Rất nhiều bệnh viện tuyến tỉnh chưa thành lập được khoa lão khoa” - ThS.BS Trần Văn Lực, trưởng phòng kế hoạch tổng hợp Bệnh viện Lão khoa trung ương, trao đổi với Tuổi Trẻ Cuối Tuần.

ThS.BS Trần Văn Lực. -Ảnh: X.Long
ThS.BS Trần Văn Lực. -Ảnh: X.Long

Theo ThS.BS Trần Văn Lực, những vấn đề chính về tình hình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay bao gồm:

Thứ nhất, sự chênh lệch tuổi thọ giữa khu vực nông thôn và thành phố khá lớn. Khu vực nông thôn có tuổi thọ trung bình cao hơn ở thành phố (theo kết quả điều tra năm 2018, trong số 1,9 triệu người từ 80 tuổi trở lên ở Việt Nam thì có 64,4% số người sống ở khu vực nông thôn). Điều này có thể liên quan đến môi trường sống, sinh hoạt thường ngày và một số yếu tố khác.

Thứ hai, mặc dù tuổi thọ của người dân cao lên nhưng bệnh tật kèm theo người cao tuổi cũng gia tăng. Với người cao tuổi hiện nay, có nhiều bệnh không lây nhiễm như tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa, đái tháo đường, sa sút trí tuệ. Đây là những nhóm bệnh không lây nhiễm, nhưng số lượng những bệnh nhân của nhóm này ngày càng tăng, trở thành một sức ép với ngành y tế.

Thứ ba, do số lượng thành viên của mỗi gia đình có xu hướng ngày càng giảm, nên số người thân chăm sóc cho người già cũng ít đi. Trong khi đó, mô hình trung tâm dưỡng lão cho người cao tuổi của Việt Nam lại chưa bắt kịp mức độ già hóa dân số này, nên người cao tuổi vẫn phải phụ thuộc vào con cái và gia đình để trợ giúp các sinh hoạt hằng ngày.

Thứ tư, dẫu Luật người cao tuổi đề cập tới việc phải có hệ thống cơ sở y tế chăm sóc cho người cao tuổi (Bộ Y tế đã có thông tư 35 hướng dẫn thi hành luật này) nhưng số lượng bệnh viện chuyên về lão khoa trên cả nước so với tỉ lệ người cao tuổi đang rất thiếu.

Điều này gây nên những vấn đề cụ thể nào, thưa ông?

- Việc thiếu các chuyên khoa lão khoa ở cơ sở ảnh hưởng đến việc chăm sóc về sức khỏe cho người cao tuổi, chưa đáp ứng được nhu cầu gia tăng của người cao tuổi.

Thực tế cho thấy khi người cao tuổi bị ốm, họ thường không chỉ bị một bệnh mà có tới 5-6 bệnh kèm theo, do cơ thể suy yếu, các bộ phận trong cơ thể cũng suy giảm chức năng, dễ khiến người cao tuổi gặp thêm cùng lúc các bệnh về mắt, tai, cơ, xương khớp.

Vì vậy, người thầy thuốc về lão khoa phải có kiến thức rất rộng và tốt mới đáp ứng được nhu cầu chữa trị bệnh tật của người cao tuổi, điều trị mới chính xác, không đơn giản như khi điều trị một bệnh bởi phải tránh cả việc người cao tuổi phải uống nhiều loại thuốc khác nhau cùng lúc.

Phòng tập hồi phục chức năng tại Viện dưỡng lão Bình Mỹ. Ảnh: Viện dưỡng lão Bình Mỹ cung cấp
Phòng tập hồi phục chức năng tại Viện dưỡng lão Bình Mỹ. Ảnh: Viện dưỡng lão Bình Mỹ cung cấp

Theo ông, những yếu tố nào ảnh hưởng đến “tuổi thọ khỏe mạnh”?

- Chế độ sinh hoạt, sự vận động của người cao tuổi là yếu tố rất quan trọng. Người cao tuổi sinh hoạt không điều độ, ít vận động thì nguy cơ bệnh tật sẽ rất cao. Cho nên những người có tuổi thọ cao thường là ở nông thôn, nơi các cụ vẫn chịu khó vận động, được làm các công việc yêu thích, được giao lưu trong thôn xóm - điều mang đến tinh thần khỏe mạnh, và là yếu tố khiến tuổi thọ cao hơn.

Ngoài ra, ở các vùng quê, nguồn thực phẩm chủ yếu là tại chỗ như rau quả, cũng là nguồn thực phẩm sạch, lành mạnh - một yếu tố quan trọng nữa giúp tuổi thọ cao hơn. Ở thành phố, nhiều người lớn tuổi thường ít vận động, thực phẩm sử dụng cũng giàu dinh dưỡng nên việc tiêu hóa chậm, phát sinh nhiều bệnh. Công viên, nơi sinh hoạt cộng đồng ở khu vực thành thị cũng hạn chế nên người cao tuổi bị giới hạn về điều kiện vận động thể chất.

Hệ thống y tế đã chuẩn bị gì cho giai đoạn già hóa dân số?

- Bộ Y tế đã đưa ra các văn bản pháp luật, như thông tư hướng dẫn về Luật người cao tuổi, hướng dẫn các tỉnh về thành lập các khoa lão khoa. Bộ cũng đã hướng dẫn các trường đại học y thành lập bộ môn lão khoa.

Tuy nhiên, hiện nay mới có Trường ĐH Y Hà Nội, Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch (TP.HCM) thành lập được bộ môn lão khoa. Hai cơ sở này đào tạo chính nguồn nhân lực cho thầy thuốc lão khoa. Các trường cao đẳng ngành y cũng sẽ đào tạo các điều dưỡng chuyên ngành lão khoa.

Ngoài ra, Bệnh viện Lão khoa trung ương đang hợp tác với Pháp, Nhật Bản để đào tạo thêm nguồn nhân lực về lão khoa. Chính phủ cũng đã có quy định như người trên 80 tuổi sẽ được hỗ trợ mua bảo hiểm y tế (BHYT).

Theo ông, những chính sách nào cần được quan tâm hơn nữa trong việc chăm sóc sức khỏe người già?

- Theo tôi, phải đồng bộ từ cơ sở y tế, nguồn lực (nguồn tài chính) cung cấp cho cơ sở y tế hoàn thiện, giúp đào tạo nguồn nhân lực thầy thuốc, điều dưỡng, đẩy mạnh cơ sở dưỡng lão. Với nhiều người cao tuổi, con cái cũng không thể phục vụ thường xuyên 24/24 giờ vì còn phải đi làm, vì thế cần thêm nhiều trung tâm dưỡng lão để người cao tuổi được nhân viên y tế có chuyên môn chăm sóc.

Chính phủ mặc dù có hỗ trợ tiền mua BHYT cho người cao tuổi song mức chi trả chỉ thực hiện với người có bệnh. Những người đang được chăm sóc tại trại dưỡng lão không thuộc diện được chi trả. Người vào trung tâm dưỡng lão vẫn phải có tiền của bản thân hoặc của gia đình để chi trả.

Vì thế, chúng ta cần cả những nguồn kinh phí hỗ trợ cho người cao tuổi ở các trung tâm dưỡng lão này. Như vậy sẽ giúp thúc đẩy, khuyến khích các cá nhân/tổ chức tham gia xây dựng các trung tâm dưỡng lão. Hiện nay các trung tâm dưỡng lão được hình thành mang tính tự phát, chưa thành một hệ thống.

Hệ thống pháp luật cho việc xây dựng hệ thống nhà/trại dưỡng lão này cũng phải đồng bộ, phát triển thành một hệ thống chuyên ngành từ trên xuống, từ dưới lên để đảm bảo chất lượng. Khi có nguồn thu ổn định và sự trợ giúp của Nhà nước, các doanh nghiệp sẽ đầu tư xây dựng nhà dưỡng lão bài bản hơn.

Một số doanh nghiệp/tổ chức Nhật Bản đã sang Việt Nam khảo sát, muốn đầu tư xây dựng hệ thống dưỡng lão từ Bắc vào Nam và tôi được biết Bộ Y tế khuyến khích ý định đầu tư này. Nhật Bản muốn giúp Việt Nam xây dựng hệ thống y tế để chăm sóc riêng cho người cao tuổi.

Việt Nam có thể học tập được những gì từ mô hình chăm sóc người cao tuổi của Nhật Bản?

- Có thể học tập nhiều từ mô hình chăm sóc toàn diện cho người cao tuổi của Nhật Bản. Hiện nay ở Việt Nam, một người bệnh đến bệnh viện khám và chữa bệnh thì luôn có 2-3 người thân đi theo chăm sóc.

Ngay từ lúc đi khám đã có 1-2 người đi cùng để xem bệnh tình thế nào, ngóng trông thông tin bệnh tật. Tiếp đến, khi điều trị, chữa bệnh lại có 2-3 người chăm, người mua đồ ăn, người giặt giũ... Vì thế, các bệnh viện luôn rất đông đúc, ngột ngạt, gây ô nhiễm, thậm chí lây nhiễm chéo bệnh tật.

Ở bệnh viện của nhiều nước, nhân viên y tế hỗ trợ, chăm sóc bệnh nhân gần như toàn bộ, từ hỗ trợ điều trị, phục hồi đến hỗ trợ sinh hoạt, vừa giúp giảm tải cho bệnh viện, vừa giúp người thân của bệnh nhân không bị gián đoạn công việc làm ăn.

Muốn vậy phải đầu tư trước cơ sở vật chất. Các bệnh viện về lão khoa cần được đầu tư xây những phòng bệnh theo đúng tiêu chuẩn cho người cao tuổi, nhà vệ sinh, nhà tắm đều phải phù hợp và đầy đủ, giúp các điều dưỡng thuận lợi hơn trong công việc của họ.

Tình trạng 2 người/giường như hiện nay khiến rất khó đáp ứng mục tiêu trên. Mặt khác, phải xây dựng giá dịch vụ hợp lý, thu đúng, thu đủ thì mới đáp ứng được nhu cầu chính đáng của người bệnh. ■

5 khuyến cáo đối với gia đình có người cao tuổi

- Tham gia bảo hiểm y tế, vì người cao tuổi thường có nguy cơ bệnh tật rất nhiều, trong khi bảo hiểm y tế hỗ trợ chi trả cho nằm điều trị tại viện rất tốt.

- Cần định kỳ thăm khám sức khỏe.

- Cần có mối quan hệ, duy trì liên lạc với bác sĩ gia đình ở gần nhà để có hỗ trợ kịp thời khi cần.

- Lưu giữ, bảo quản hồ sơ khám, chữa bệnh với người cao tuổi. Khi tới viện cần mang theo để các bác sĩ nắm bắt được lịch sử bệnh tình của người cao tuổi.

- Trong sinh hoạt, vận động cần chú ý chế độ ăn uống điều độ, vận động phù hợp với lứa tuổi, tập những môn thể thao phù hợp.

Các chính sách đối với người cao tuổi ở TP.HCM

Theo nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp thấp nhất là 270.000 đồng/tháng. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được quyết định mức trợ cấp xã hội, mức trợ cấp nuôi dưỡng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc, nuôi dưỡng và các mức trợ giúp xã hội khác cao hơn các mức tương ứng quy định tại nghị định này.

Ở TP.HCM, người cao tuổi từ đủ 60 tuổi đến dưới 80 tuổi thuộc hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng thì được lãnh 570.000 đồng/người/tháng.

Người từ 80 tuổi trở lên thuộc hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng thì được lãnh 760.000 đồng/người/tháng.

Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc các diện nêu trên, không có lương hưu, không có trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hằng tháng thì được nhận 380.000 đồng/người/tháng.

Mức hỗ trợ này ở TP.HCM là cao hơn so với nhiều tỉnh, thành khác trên cả nước. Ngoài ra ở TP.HCM, người từ 70 tuổi trở lên được miễn phí sử dụng xe buýt có trợ giá.

MAI HƯƠNG

Ảnh: Fine Art America
Ảnh: Fine Art America

Nhiều người già không có tiền trả dịch vụ dưỡng lão

Theo thống kê từ Sở LĐ-TB&XH TP.HCM, số người cao tuổi đang được chăm sóc, nuôi dưỡng miễn phí hoặc có thu phí tại các trung tâm bảo trợ xã hội là 2.066 người. Trong đó có 8 trung tâm bảo trợ xã hội công lập đang nuôi dưỡng 1.466 người cao tuổi và 600 người cao tuổi được nuôi dưỡng tại 13 trung tâm bảo trợ xã hội ngoài công lập tại cộng đồng.

Trong bối cảnh cả nước nói chung và TP.HCM nói riêng đang già hóa dân số với tốc độ nhanh, Sở LĐ-TB&XH TP cho rằng các trung tâm dưỡng lão được coi là giải pháp tốt nhất cho người già.

Ngày càng nhiều người cao tuổi có nhu cầu vào trung tâm dưỡng lão, xu hướng này sẽ tiếp tục tăng. Tuy nhiên, những trung tâm cung cấp dịch vụ dưỡng lão còn rất ít và số lượng người cao tuổi sử dụng dịch vụ vẫn hạn chế.

Trong số 8 trung tâm nuôi dưỡng người cao tuổi thuộc nhà nước tại TP.HCM, có 7 trung tâm do ngân sách TP đảm bảo 100%, riêng Trung tâm dưỡng lão Thị Nghè có thu phí (khoảng 3 triệu đồng/người/tháng). Trong số 13 trung tâm dưỡng lão do các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thành lập, chỉ có 4 cơ sở cung cấp dịch vụ thu phí, giá từ 2-10 triệu đồng/người/tháng.

Theo đại diện phòng bảo trợ xã hội (Sở LĐ-TB&XH TP), phần lớn người cao tuổi đến ở trung tâm dưỡng lão có thu phí là người có lương hưu. Chi phí một phần do người cao tuổi tự thanh toán bằng tiền tiết kiệm, chỉ một tỉ lệ nhỏ do con cái, người thân hỗ trợ.

Do số người không có lương hưu khi về già ngày càng tăng nên dù có nhu cầu nhưng hạn chế về khả năng chi trả, việc sử dụng dịch vụ dưỡng lão của người dân còn ít. Có những trung tâm dưỡng lão cơ sở vật chất khang trang, hiện đại nhưng chưa đến 10 người ở. Một số trung tâm phải đóng cửa hoặc chuyển sang hình thức khác.

“Nhiều người cho rằng thay vì cho con cháu hầu hết tài sản, việc người cao tuổi dành tiền sử dụng dịch vụ dưỡng lão còn có ý nghĩa trong việc giáo dục con cái phải tự rèn luyện, tự chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, không ỷ lại bố mẹ. Ở trung tâm dưỡng lão, mọi thứ đều sạch sẽ, chu đáo.

Ngoài việc chăm sóc từ bữa ăn, giấc ngủ, các trung tâm dưỡng lão thường xuyên ký hợp đồng hoặc thuê bác sĩ vào khám và điều trị các bệnh mãn tính của người cao tuổi. Luôn có điều dưỡng túc trực, chăm sóc các cụ 24/24 giờ. Đặc biệt vào đây người cao tuổi có rất nhiều bạn, chuyện trò giao lưu và tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao...” - đại diện một trung tâm dưỡng lão chia sẻ.

Cũng theo Sở LĐ-TB&XH TP, việc thu hút các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng nhà dưỡng lão gặp nhiều khó khăn do cơ sở hạ tầng rất hạn chế, nguồn nhân lực chưa ổn định. Một cán bộ Sở LĐ-TB&XH TP cho rằng nên dần chấp nhận loại hình dịch vụ chăm sóc và nuôi dưỡng người cao tuổi tại các cơ sở có thu phí, bởi các trung tâm này có điều kiện chăm sóc tốt hơn, có chuyên môn chăm sóc, nuôi dưỡng và chữa bệnh cho người cao tuổi.

Rất nhiều người cao tuổi hiện phải tự chăm sóc bản thân hoặc được hỗ trợ chăm sóc tại gia đình bởi những người chưa được đào tạo.

XUÂN MAI

Con già chăm bố mẹ già

T.L.(*) 17/07/2019 01:07 GMT+7

TTCT - Do tuổi thọ con người ngày càng cao, bố mẹ và con cái phải “cùng già bên nhau”. Những mô hình gia đình như vậy, thời nay, hóa ra lại phát sinh đến lắm vấn đề mới.

 

Giấc mơ bị thay đổi

Khi hình dung về tuổi già của bản thân, kịch bản phổ biến nhất thường là:

- Nghỉ hưu.

- Làm những việc mình thích.

- Chăm cháu.

- Sống bằng lương hưu/lợi tức.

Tây cũng như ta, ai cũng nghĩ “già là để nghỉ”. Nhưng Susan B. Garland kể lại trong một bài viết trên tờ New York Times, đấy là lúc những nhiệm vụ mới bắt đầu.

Lynda Faye dự định khi thôi dạy học sẽ về làm vườn tại quê, thời gian rảnh chia ra thăm lần lượt tám đứa cháu nội ngoại. Trong danh sách của bà cho những tháng ngày “tuổi vàng” không hề có mục: chăm mẹ già.

Đến nay, bà Faye đã 75, và mẹ bà - bà góa Meisel - đã 99. Bà Faye dành cả ngày chỉ để giúp mẹ tắm, nấu và cho mẹ ăn, lấy thuốc mẹ uống, quản người phụ việc, và đẩy xe lăn cho mẹ đi dạo. “Thật là trớ trêu, chúng tôi không nghĩ bà lại sống lâu thế, bà vốn đâu có khỏe’’ - Faye nói.

Tác giả bài báo nhắc đến một hiện tượng ngày càng phổ biến, mà Faye với mẹ bà là một thí dụ điển hình: con cái vào tuổi 60 hay 70 dành những năm hưu trí của mình để chăm bố mẹ tuổi 90 hay hơn. Kathrin Boerner, một phó giáo sư chuyên về lão khoa tại Đại học Massachusetts Boston, cho rằng do tuổi thọ con người ngày càng cao, bố mẹ và con cái đang phải “cùng già bên nhau”.

“Ai đến cuối 60 và đầu 70 cũng nghĩ đây mới là thời gian hưởng thụ, khi mà nhiều trách nhiệm đã được cất bỏ - Boerner nói - Vì thế vẫn còn bố mẹ có thể là một món quà trời cho, nhưng cũng có thể là điều thực sự khó khăn”.

Bức tranh tài chánh cũng ảm đạm theo. “Khi bố mẹ đã hết sạch tiền dự trữ, đứa con sẽ phải dùng tới phần tiền dự định dùng cho mình về cuối đời” - Boerner nói. Giấc mơ hưu trí thế là tan tành.

Nhận vào là một gánh nặng

Boerner đang tiến hành một nghiên cứu (do quỹ liên bang tài trợ) về mối quan hệ của 120 bố mẹ từ 90 tuổi trở lên và con cái họ từ 65 tuổi trở lên. Cô thấy rằng những người về già vẫn chăm sóc bố mẹ, đặc biệt là con gái, thường sức khỏe suy giảm hơn đám con thảnh thơi, do căng thẳng, do các công việc tay chân bắt buộc, do sự cô đơn thường đi kèm với việc ở nhà chăm sóc.

Với những gia đình vốn gắn bó và yêu thương nhau, việc chăm sóc người già cũng không phải luôn dễ dàng. Còn ở những gia đình giữa bố mẹ và con cái vốn có mối quan hệ không tốt, việc đứa con bắt buộc phải chăm bố mẹ trở thành gánh nặng khôn kham, chất lượng chăm cũng không ra sao.

Ảnh hưởng này còn tiếp tục ngay cả khi bố mẹ qua đời. Một nghiên cứu cho thấy những người con gái chăm mẹ già thường bị trầm cảm và cao huyết áp hơn so với những người con gái không phải chăm.

Con trai chăm bố mẹ có tỉ lệ bệnh tim cao hơn đám con trai không phải chăm. Sau khi bố (hay mẹ) mất, tình trạng này vẫn còn dai dẳng. “Thật khó mà tẩy được các tình trạng mãn tính này một khi đã mắc” - giáo sư Courtney Harold Van Houtven, đồng tác giả của nghiên cứu trên, giải thích.

Nhiều người ở nước ta cũng rơi vào hoàn cảnh như bà Faye. Tiền nong có thể không thành vấn đề, họ có thể đưa phụ huynh vào nhà dưỡng lão, khi mà không gian nhà dưỡng lão với ghế đá, lối đi, có người cùng cảnh ngộ để nhìn vào tự an ủi, có điều dưỡng cần là xuất hiện... tốt hơn nhiều những căn nhà ống chỉ có chị giúp việc giả điếc và mạnh tay, một mình tác oai tác quái trong thời gian con cháu đi làm cả ngày dài.

Thế nhưng quan niệm Á Đông về chữ “hiếu”, về “vứt bố mẹ cho người lạ chăm” vẫn còn quá nặng nề. Họ giữ bố mẹ lại nhà chăm, và không phải ai cũng được như bà Faye, tự coi mình là “vô cùng may mắn” khi người mẹ già vẫn minh mẫn, hài hước, luôn luôn cảm kích trước những gì con gái làm cho mình.

 

Nhưng buông đi cũng là một gánh nặng

Để giảm stress và việc chăm bố mẹ được lành mạnh, các chuyên gia khuyên con cái nên có lúc nghỉ ngơi, khám sức khỏe thường xuyên, duy trì các quan hệ xã hội và năng tập thể dục. Ở nước ta, thế hệ cháu có lẽ cũng nên chia nhau ngày trực chăm ông bà. Hãy dạy chúng thế này: xét cho cùng, không có các vị ấy thì tất cả bọn bay đã không có trên đời!

Nhưng ngay cả ở Tây, vẫn có những người coi việc chăm bố mẹ già là một hạnh phúc. Theo bài báo của Garland, trong một số trường hợp, có những người con (đặc biệt là con gái) đã nghỉ hưu sớm hơn để tập trung chăm sóc bố mẹ.

Hai chị em Margaret, 70 tuổi, và Judi, 72 tuổi, đã cùng nghỉ việc để chăm mẹ là bà Silverstein hiện 100 tuổi. Cả ba sống trong một căn hộ hai phòng ngủ ở Brookline (bang Massachusetts, Mỹ). Ba năm trước, cụ Silverstein sống một mình. Con gái lớn của cụ là Margaret làm y tá tại một nhà dưỡng lão gần đó. Hằng ngày bà nấu ăn cho mẹ, giặt giũ và làm việc vặt.

Thế rồi cụ Silverstein đi lại khó khăn. Bà Margaret quyết định đưa mẹ vào nhà dưỡng lão để có thể vừa làm vừa trông mẹ. Bốn tháng sau, nhà dưỡng lão ấy đóng cửa. Bà Margaret sợ rằng đưa mẹ vào chỗ khác không được tốt.

Bà kiếm một công việc khác, tìm một nơi rộng rãi hơn và kêu người em vào ở chung; cả hai chị em đều đã ly dị. Bà Judi khi ấy mới nghỉ hưu tại một đại học cộng đồng. Bà định mỗi khi chị đi làm thì mình chăm mẹ, cứ thế thay phiên.

Nhưng mẹ càng già, việc chăm sóc càng nặng nề, khiến bà chị phải nghỉ việc. Bảo hiểm xã hội của bà mẹ trả cho một phần tiền nhà và một số hóa đơn. Chương trình Medicaid trả cho tiền thuê người giúp sáu giờ mỗi ngày, mỗi tuần sáu ngày. Tranh thủ lúc có người giúp, hai chị em ra quán ăn uống, đi bảo tàng, gặp bạn bè, và đi xem phim. “Mình cần phải đối xử tốt với bản thân” - bà chị nói.

Đến lượt những người con cũng ngày càng già. Bà chị đã phải thay khớp gối nhưng vẫn dìu mẹ từ ghế này sang ghế khác được. Bà em bị vẹo cột sống và loãng xương, đến bản thân làm việc nhẹ cũng khó. Họ quyết định, nếu mẹ già hơn nữa, cần chăm sóc thêm nữa, thì họ mới đưa cụ vào nhà già.

Bản thân hai chị em nói họ cũng phải chuẩn bị cho sự sống lâu của bản thân. Họ chọn căn hộ này vì nó được một tổ chức phi lợi nhuận điều hành và có nhiều loại dịch vụ cho người cao tuổi. Họ bảo với con họ rằng họ không muốn chúng thành hộ lý cho mình. “Tôi chăm mẹ được nhưng sẽ không làm thế với con tôi. Cứ cho tôi vào nhà dưỡng lão” - bà Judi nói.

Phần cụ Silverstein, ngày ngày xem CNN và nghe sách nói. Tuy có nhiều điểm bất đồng với hai con gái, nhưng cụ đánh giá cao hai con. “Đời chúng thực sự khổ kể từ khi tôi không đi lại được nhiều - cụ nói - Tôi là rất may mắn đấy: hai con gái đều tuyệt vời, trên mọi khía cạnh”.

Khi gánh nặng chưa là gánh nặng

Tuy nhiên hoàn cảnh phổ biến nhất là con vẫn còn đi làm tuy cũng khá già, bố mẹ già rồi nhưng vẫn tự chăm sóc được. Thường giai đoạn này con cái hay xem nhẹ, trong khi theo các chuyên gia, việc sống cô đơn, lủi thủi và buồn chán lại thường là những vấn đề phổ biến nhất của người già. Họ còn khỏe đấy nhưng không đi ra ngoài được nhiều như xưa. Họ thấy bạn bè qua đời dần. Họ thấy lạc hậu trước một xã hội quay cuồng như vũ bão trên báo đài.

Nhưng con cái thường chỉ quan tâm phần “thấy được”. Có một người giúp việc ổn là coi như xong. Nhiều người con miễn thấy bố mẹ ăn được, đều đều thuốc bổ sáng chiều, nhà cửa sạch sẽ, là an tâm đi làm về không cần nói chuyện thêm với các cụ. Trong khi với các cụ, tinh thần là quan trọng nhất. ■

(*): tổng hợp và dịch

Đây là những lời khuyên giản dị mà nhiều chuyên gia về tuổi già đưa ra cho những người con bận rộn. Bí quyết để thực hiện dài lâu là nghĩ “Mình làm gì với bố mẹ thì sau này con cái sẽ làm y như thế với mình”.

1. Duy trì liên hệ thường xuyên: ở gần thì nói chuyện mỗi ngày, bàn các vấn đề thời sự, xã hội, hàng xóm. Ở xa thì gọi điện đều đặn, cho các cụ thấy mặt trên điện thoại. Không nên coi thường người già bằng cách họ nói gì cũng không phản biện, vì làm thế sẽ khiến đầu óc người già cùn đi.

2. Khuyến khích các cụ ra ngoài: là dịp để các cụ được mặc đẹp, được đánh thức lại nhiều thứ, được nhìn xã hội thay đổi.

3. Ra ngoài với bố mẹ: đừng ngại đi mua sắm, ăn uống với bố mẹ già. Nếu các cụ không chịu đi, ít nhất cũng dẫn các cụ xuống ghế đá chung cư ngồi chơi cùng.

4. Thuê được người chăm sóc thật thà: kỹ năng của người này có thể chưa tốt, nhưng cần sự thật thà hiền hậu của họ. Tuy vậy, “bạn không được để sự hiện diện của người giúp việc thế chỗ mình trong đời cha mẹ già”.

5. Hướng dẫn các cụ dùng công nghệ mới: với công nghệ, các cụ có thể tham gia mạng xã hội khiến đầu óc linh hoạt hơn, thời gian đỡ nhàm chán. Ngoài ra, có thể tìm những game đơn giản để các cụ chơi, vừa luyện tay, luyện mắt, lại luyện óc phán đoán.

6. Đến thăm nhiều: điện thoại, quà cáp, công nghệ không thay được việc tự mình đến thăm bố mẹ. Nhớ là khi đến thăm không dán mắt vào điện thoại.

Chăm sóc người già: Mô hình Tây học ta

LÊ QUANG 16/07/2019 22:07 GMT+7

TTCT - Nhân loại ngày càng lụ khụ, vì không chỉ thế giới thứ nhất có xu thế đẻ ít đi và thọ lâu thêm. Đột nhiên mọi hệ thống an sinh xã hội, nhất là bảo hiểm hưu trí quen dựa trên những tính toán cách đây nửa thế kỷ, trở nên đáng ngờ. Người ta bắt đầu hối hận vì đã có thời dè bỉu cấu trúc tam đại đồng đường của những nước phương Đông.

Ảnh: Lize Prins
Ảnh: Lize Prins

Cái rủi trong cái may

Tính toán của Liên Hiệp Quốc cho thấy dân số thế giới sẽ liên tục tăng trong mấy thập kỷ tới để đạt đỉnh điểm 9,8 tỉ người vào năm 2050, sau đó đồ thị sẽ đổi hướng đi xuống. Cũng dễ hiểu thôi: cuộc sống vật chất khá lên với thời gian, ngày càng nhiều người được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe hơn nên sẽ sống lâu hơn, đó là điều đáng mừng.

Nhưng mức sống cao hơn cũng khiến việc sinh nhiều con hòng có chỗ nương cậy tuổi già không còn hấp dẫn. Đó là một trong những kết luận cốt yếu từ thống kê nói trên. Quan trọng nhất không phải là có bao nhiêu người sống trên quả đất này, mà năm 2050 chính là thời điểm số người già (trên 60 tuổi) sẽ vượt số người trẻ (dưới 15).

Hiện tại số người già toàn cầu là 630 triệu, cứ theo đà tăng tuổi thọ và bớt sinh sản như hôm nay thì lượng người già vào năm 2050 là 2 tỉ, chiếm 1/5 dân số.

Dĩ nhiên đó chỉ là con số tuyệt đối, chứ sự phát triển ấy không đồng đều. Tiến bộ trong y học và an ninh lương thực sẽ khiến gia tốc tăng tuổi thọ tại các nước đang phát triển ở châu Phi, châu Á cao gấp 4 lần so với Tây Âu vốn đã phồn vinh (cũng phải nói thêm, thảm họa HIV/AIDS ở châu Phi cũng là nhân tố đáng kể, vì nó chủ yếu giết chết người trẻ).

Song các nước đang phát triển phải đối mặt với một hệ quả khác: người già chủ yếu sống ở vùng nông thôn, trong khi người trẻ đổ xô ra thành phố vì lý do kinh tế, nói cách khác là các nước nghèo sẵn lại thiếu hụt lao động để sản xuất lương thực thực phẩm. Bác sĩ Go Harlem Brundtland - cựu tổng giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) - tóm gọn ý đó trong công thức: “Các nước công nghiệp giàu rồi mới già, còn các nước đang phát triển già rồi mới giàu”.

Nói cái rủi hay lồng vào cái may là vậy. Thuở các Cristoforo Colombo rẽ sóng đi tìm bờ cõi mới, châu Âu được mặc định là cựu thế giới. Tình cờ trong đa số ngôn ngữ châu Âu, cựu cũng có nghĩa là già, và chưa bao giờ lục địa châu Âu già như hôm nay. Và tỉ lệ già/trẻ lệch lạc ấy đem lại nhiều hệ lụy, chỉ xét riêng về quỹ hưu trí là đủ thấy sốt vó.

Lật kèo bất đắc dĩ

Ở Đức từ 1957 có khái niệm Generationsvertrag (khế ước giữa các thế hệ) để chỉ tình trạng người đi làm đóng bảo hiểm nuôi người về hưu, đồng thời mua được quyền lĩnh lương hưu khi hết tuổi lao động. Luật không cho phép quỹ bảo hiểm xã hội đem tiền quỹ đi đầu tư mạo hiểm, do đó số tiền đóng vào cũng xấp xỉ khoản chi ra.

Năm 1962 cứ một người lĩnh tiền già thì có 6 người đi làm để trích tiền đóng bảo hiểm hưu - tức là khá xông xênh, 10 năm sau còn 4, và hôm nay chỉ có 2 người nuôi quỹ bảo hiểm cho một cụ về hưu đủ sống!

Kết quả là một số quốc gia châu Âu đang rục rịch bước vào lộ trình tăng dần tuổi hưu, đang từ 60-65 lên 65-67 nếu không muốn vỡ quỹ. Bất kể biện pháp đó có kết quả ra sao, không ai dám dùng cụm từ “khế ước thế hệ” nữa. Nhiều nhà nghiên cứu dân số tin rằng sau năm 2030, sẽ phải tiến dần đến ngưỡng tuổi 70 mới được lĩnh tiền già.

Ở Đức, quốc gia được coi là có hệ thống an sinh xã hội khá cao, hàng trăm ngàn người về hưu đi làm thêm, đa phần là vài tiếng mỗi ngày. Nhiều người thích thế, những người khác bắt buộc phải thế.

Bà Maria Watt, 65 tuổi, mỗi ngày làm vệ sinh tầng 28 và nửa tầng 30 ngôi nhà chọc trời của Ngân hàng Deutsche Bank tại Frankfurt, tổng cộng khoảng 1.000 thước vuông. Đồng hồ báo thức của bà réo rắt lúc 3 giờ sáng. Sau bữa sáng bà ra khỏi nhà để kiếm thêm 400 euro mỗi tháng, vì lương hưu 634 euro không cho phép bà đi nhà hát hoặc sở thú, kỳ nghỉ mát của bà cũng đều đặn diễn ra ngoài bancông nhà, chứ không phải bên bờ Địa Trung Hải.

Số lượng lao động tuổi từ 60-64 ở Đức đã tăng gấp đôi so với năm 2001, theo nghiên cứu gần đây của OECD. (Ảnh: dw.com)

Bà thuộc vào đội quân khoảng 760.000 người hưu trí làm thêm để có cuộc sống tạm gọi là đầy đủ. Theo tờ Sueddeutsche Zeitung, con số ấy tăng gấp đôi so với năm 2000, và ít nhất 120.000 người trong diện này đã qua tuổi 75.

Xã hội càng nhiều người già thì đến lúc nào đó phải nghiêm túc đặt vấn đề chăm sóc người già, khi quỹ bảo hiểm xã hội không thể cáng đáng được nữa. Từ 1-1-1995, Đức bắt buộc người đi làm phải đóng thêm một khoản gọi là bảo hiểm điều dưỡng, bởi quỹ bảo hiểm y tế rõ ràng đã kiệt sức. Loại bảo hiểm này dần xuất hiện ở các nước châu Âu khác, dù còn rất nhiều chênh lệch về quy mô cũng như cấp tài chính.

Ở quy mô châu lục, công tác điều dưỡng dài hạn dựa nhiều vào các hình thức phi chính thống, tức là không phải do nhà nước đảm nhiệm. Gia đình, họ hàng, mạng lưới xã hội đóng vai trò quan trọng. Nhà nước biết, nhưng không thể đảm đương được hết các yêu cầu đặt ra và cũng không thể có đủ nhân lực chuyên nghiệp, dù đã vơ vét cả từ các nước dư thừa lao động như Việt Nam, Mông Cổ, Trung Quốc, Đông Âu...

Do đó, người ta nhắm mắt trước những ôsin bán chuyên. Các quốc gia Bắc Âu như Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy... đảm đương lĩnh vực này khá hơn. Ireland, Anh, Úc tổ chức rất tốt hình thức hỗn hợp công tư. Như ở nhiều lĩnh vực xã hội, nhà thờ Kitô đóng vai trò đặc biệt quan trọng, họ có hệ thống nhà trẻ, bệnh viện và nhà dưỡng lão riêng, cáng đáng phần nào cho xã hội và nhà nước.

Không thể không nhắc đến một sự chuyển đổi tư duy của châu Âu. Ở một giai đoạn nhất định, người Âu dạy con tự lập sớm, và đủ tuổi là cho con cái ra ở riêng. Lối sống này có nhiều mặt tích cực vì tránh được các đụng chạm thế hệ, song đã đến lúc cũng phải nhìn thấy mặt trái.

Nhiều thế hệ lớn lên không được nghe ông bà kể chuyện cổ tích trước khi đi ngủ, cuộc sống công nghiệp tất bật khiến con nít phải dậy từ 5 giờ sáng để còn đi nhà trẻ cho bố mẹ đi làm, người già sống quạnh hiu và chiều đến đi dạo cùng con chó, thay vì được quây quần bên con cháu.

Những năm gần đây ở châu Âu, người ta nhận ra xu hướng người già không thích vào nhà dưỡng lão như trước, tiếc rằng nhiều nước quá bất ngờ và chưa kịp đưa ra chiến lược mới để củng cố trào lưu này, trừ vài quốc gia có tiềm lực kinh tế như Đức, Pháp, Anh, Luxemburg, Đan Mạch. Các nước Nam Âu và Đông Âu thì sẵn có truyền thống chăm sóc người già ở nhà. Hungary, Latvia và Litva còn đưa vào luật để điều tiết trách nhiệm của gia đình. Thụy Sĩ, Phần Lan, Ireland và Anh hỗ trợ tài chính thẳng cho cá nhân trực tiếp chăm sóc người già.

Tam đại đồng đường

Khái niệm an sinh xã hội còn chưa có trong từ điển tiếng Việt thì xã hội Việt Nam từ ngàn đời đã tự hình thành hệ thống bảo hiểm của mình. Người ta đẻ nhiều con để lấy nhân lực và làm nguồn sống khi cao tuổi. Cũng khó có lựa chọn khác khi phần đông dân số ở nông thôn và không có bảo hiểm xã hội. Một cách rất trực tiếp, xã hội Việt Nam chỉ biết đến những gia đình chung sống giữa ông bà, cha mẹ, cháu chắt.

Tình hình ở thế giới thứ ba cũng tương tự, thậm chí ngay cả ở khu vực Nam Âu, Nam Mỹ. Sự tách bạch đại gia đình thành các đơn vị riêng biệt là một bước hợp lý ở một giai đoạn phát triển, song ít nhất là hôm nay đang có một tư duy mới.

Thoạt tiên cũng rất tiện: lúc nào cũng có người ở nhà trông con khi bố mẹ đi làm thêm giờ, đi xem phim..., hoặc nhận bưu kiện gửi đến trong giờ hành chính. Ông bà với kinh nghiệm sống của mình thường có tác động tích cực đến giáo dục trẻ em, không bị coi là thừa hay vô dụng.

Liên quan đến vấn đề sức khỏe người cao tuổi, trẻ em sớm được giáo dục về trách nhiệm với gia đình và xã hội. Thực ra đây là phương thức sống mang tính lịch sử và truyền thống, và có lẽ tự nhiên hơn, bởi con người xuất phát là một động vật bầy đàn, chứ không phải loài sống đơn lẻ.

Cuộc sống chung dĩ nhiên có mặt trái của nó, nhưng bù lại người ta học được tinh thần bao dung, chia sẻ, bỏ bớt cái tôi ngày càng xấu xí. Không chỉ ở thế giới thứ ba, ngày xưa khắp nơi, các thế hệ đều ở chung dưới một mái nhà, cho đến khi cuộc sống khá lên và dần dần mỗi người vươn tới một khoảnh “giang sơn” riêng. Người độc thân, vợ chồng có hay không có con, cha mẹ độc thân nuôi con, người già ở riêng...

Ở Đức trung bình trong mỗi nhà có 2,03 người! Cổng thông tin bất động sản immonet.de mới đây có cuộc thăm dò dư luận và nhận được 2.800 thư trả lời. 36% hoàn toàn có thể hình dung ra các lợi thế khi ở trong một ngôi nhà với nhiều lứa tuổi khác nhau. “Một ngôi nhà với ba thế hệ có nhiều mặt tích cực, người trẻ và người già học hỏi lẫn nhau và cũng hỗ trợ nhau”.

Đó là kinh nghiệm của ông Jürgen Dawo, sáng lập viên tập đoàn xây nhà Town & Country Haus với doanh số đứng đầu nước Đức từ thương hiệu nhà cao cấp. Người già ở nhà nhiều, giảm tải áp lực cho các con đang đi làm và góp tay trông cháu, làm vườn, thay vì cô đơn trước tivi.

Tuyên chiến với “nhà tập thể cho người già”

Ở Marienrachdorf (Đức) có một nông trại của gia đình nông dân Guido Pusch. Ngoài ra, còn 14 cụ hưu trí. Họ sống hạnh phúc giữa đám gia súc và giúp một tay, tùy sức lực, thay vì vào một nhà dưỡng lão và đợi người phục vụ. Không chỉ trên đất Đức, ở Đan Mạch và Hà Lan đã có nhiều mô hình kiểu này.

Các chuyên gia tin rằng môi trường này giúp người cao tuổi vẫn sống năng động được dài hơn. Mỗi người trả 1.600 euro/tháng cho Pusch, trong đó 450 euro là tiền nhà, khoản còn lại dành cho việc chăm sóc 24/7. Cũng nhờ nguồn thu nhập này, nông trại có thể tiếp tục tồn tại mà không cần phải chuyển sang nuôi gia súc kiểu công nghiệp. Pusch hứa, không ai phải rời bỏ nơi này khi già yếu: họ sẽ được chăm sóc đến ngày cuối cùng.

Chuyện ở nhà dưỡng lão

LAN ANH - XUÂN MAI - XUÂN LONG 15/07/2019 22:07 GMT+7

TTCT - Không ít gia đình trẻ đang có câu đùa cửa miệng: “Đối xử tốt với con nếu không sau này chúng đưa vào trại dưỡng lão”. “Nhà/trại dưỡng lão” trong mắt nhiều người Việt có vẻ như là một chốn không thân thiện, chủ yếu dành cho những người cô đơn, không nơi nương tựa hay nghèo khó. Nhưng định kiến đó đang dần được thay đổi.

Nguồn: Viện chính sách công và quản lý - Đồ họa: L.T.

Bên cạnh các cơ sở chăm sóc người cao tuổi thuộc diện bảo trợ xã hội, sự hình thành các trung tâm dưỡng lão dịch vụ đã và đang là một xu thế tất yếu khi đời sống người dân ngày càng nâng cao và những định kiến mờ dần. Nâng cao chất lượng các dịch vụ nhằm giúp người cao tuổi sống vui - sống khỏe - sống thọ đang là mục tiêu chính của các trung tâm dưỡng lão.

Những chuyện cảm động

Ông Nguyễn Văn Thuần - quản lý Trung tâm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi Orihome (Hà Nội) - cho biết khoảng 3 năm trước trung tâm đón nhận một cụ bà 89 tuổi đã bị tai biến sau khi điều trị tại bệnh viện. “Cụ V.T.A., ở phố Lò Đúc, Hà Nội. Khi vào trung tâm cụ bị liệt, không nói được, hai con cụ nhờ trung tâm chăm sóc phục hồi tiếp” - ông Thuần kể.

Từ ngày cụ vào, câu chuyện hiếu nghĩa với đấng sinh thành của hai người con cụ được nhiều người nhắc đến. Cụ V.T.A. có hai người con, một trai, một gái. Hơn 3 năm qua, dù đã đóng một khoản kinh phí nhờ trung tâm chăm sóc mẹ, nhà cách trung tâm gần 20km, nhưng đều đặn sáng - chiều hai người con thay phiên nhau ghé vào trung tâm thăm mẹ.

“Khi vào đây, cụ đã không nói được nữa, nhưng chức năng nghe vẫn còn, giúp cụ giao tiếp được. Hai con cụ cùng các điều dưỡng của trung tâm làm tất cả mọi việc, lúc xoa bóp, lúc cho cụ ăn...” - ông Thuần kể.

Năm nay cụ V.T.A. đã 92 tuổi. “Con gái cụ là một giáo viên. Những ngày hè cô ấy được nghỉ nên chiều nào cô cũng đến trung tâm, chăm mẹ cả tiếng rồi mới về. Người con trai thì sáng nào trước khi đi làm cũng ghé trung tâm thăm mẹ. Hình như hai con cụ có bàn nhau về thời gian vào thăm để cả sáng cả chiều cụ đều cảm nhận có con ở bên” - ông Thuần kể.

Ở một trung tâm dưỡng lão khác cuối đường Lê Văn Lương (Hà Nội), có một phòng trong trung tâm được thuê riêng cho hai vợ chồng già. Cả hai cụ chưa đến nỗi “bán thân bất toại”, nhưng đi lại đã chậm và đều trên 80 tuổi. Trên tường căn phòng của họ ở trung tâm này là bức ảnh gia đình 5 người, chụp khi người con gái út của hai cụ tròn 1 tuổi (năm 1965).

Khi hỏi ngày nào cụ bà vui nhất trong tuần, cụ nói đó là thứ năm - ngày mà người con gái vào thăm và chủ nhật - ngày người con trai vào thăm. Các cháu của hai cụ đến thăm không cố định ngày. Khi chúng tôi đến, cụ ông đang đi miền Nam chơi, chỉ còn cụ bà “ở nhà”.

Kế bên là phòng của 6 cụ bà, người nào cũng bị liệt nửa người, thậm chí nặng hơn. Ở đây, chúng tôi gặp một nữ giáo sư chuyên ngành thổ nhưỡng 77 tuổi. Vợ chồng bà không có con, chồng bà cũng đang nằm bệnh viện, hai người em ruột đã gửi chị mình vào trung tâm này.

Giới thiệu cho chúng tôi một lẵng hoa rất đẹp, vị nữ giáo sư cho hay đó là hoa của học trò mới tới thăm, tặng. “Cô thích ở nhà vì có học trò đến thăm suốt, vui lắm, nhưng khó khăn ở chỗ thuê người chăm nom, đã có lần người ta không gội đầu cho cô cả tháng trời. Khi mới vào trung tâm cô cũng buồn lắm, nhưng học trò biết lại ghé đến thăm, an ủi. Lúc khỏe, cô lại dịch sách...” - nữ giáo sư tâm sự.

Ông Bùi Anh Trung - giám đốc Viện dưỡng lão Bình Mỹ (huyện Củ Chi, TP.HCM) - cho hay ngoài những trường hợp may mắn vì các cụ còn sức khỏe, được người thân quan tâm và đến thăm vào những ngày cuối tuần hay rảnh rỗi, tại viện cũng còn nhiều số phận éo le, dường như bị con cháu quên lãng sau 1-2 tháng gửi gắm.

“Chúng tôi luôn cố gắng giúp các cụ cảm thấy nơi đây như là nhà của mình, không có cảm giác bị thiếu vắng tình cảm gia đình” - ông Trung chia sẻ.

Điển hình như ông Ng.V.C. (64 tuổi, Q.5) được con cháu đưa đến viện dưỡng lão từ năm 2014. Đến nay, các con cháu chưa lần nào đến thăm ông dù viện dưỡng lão đã tích cực liên hệ. Tôi ra hành lang khu A để trò chuyện cùng ông C.. Ông ngồi trên xe lăn, bưng chén cơm chậm rãi múc từng muỗng. Khi tôi hỏi thăm sức khỏe và gia đình, ông hấp háy đôi mắt trũng sâu, nước mắt lăn dài trên gò má, im lặng.

Viện dưỡng lão Bình Mỹ (Củ Chi, TP.HCM) tổ chức cho các cụ đi siêu thị vào cuối tuần. Ảnh: Viện dưỡng lão Bình Mỹ cung cấp

“Điểm hẹn của người già”

Người cao tuổi đến với các trung tâm dưỡng lão vì nhiều lý do, có người không muốn con mình vất vả, có người nói ở trung tâm vui hơn vì có người bầu bạn, cũng có người sau khi bị đột quỵ, liệt nửa người... được con cái đưa vào trung tâm để được chăm sóc phục hồi tiếp.

Với những người cao tuổi vẫn còn khả năng tự chăm sóc bản thân, chưa cần đến các hỗ trợ phục vụ sinh hoạt, mức phí khoảng 7 triệu đồng/người/tháng. Với những người cao tuổi bị liệt, không còn khả năng tự ăn, tự vệ sinh răng miệng hay tắm, phải có điều dưỡng hỗ trợ hoàn toàn, mức phí từ 8,5 - 9,5 triệu đồng/người/tháng. Người thuê phòng riêng chi phí có thể lên đến 13 - 15 triệu đồng/tháng. Đây không phải là mức phí “dễ chịu” với rất nhiều người già ở Việt Nam.

Bà Phạm Thị Lý (75 tuổi) chia sẻ năm bà 70 tuổi thì chồng bà qua đời, sau đó bà cũng bị một số bệnh tuổi già. “Tôi có hai người con, khi tôi còn ở nhà thì con cái đi làm vẫn bận tâm lo lắng cho mẹ. Chúng nó lo từ chuyện ăn sáng, ăn trưa, đến trưa tranh thủ nghỉ làm thì lại chạy về lo cho mẹ..., tôi thấy con vất vả.

Rồi tôi suy nghĩ: sau khi chữa bệnh xong, tại sao mình không đến trung tâm chăm sóc người già để được chăm sóc. Vậy là tôi quyết định đến trung tâm. Ở đây tôi rất vui, có bạn bè, được chăm sóc, được vui chơi, cuối tuần các con đều ghé thăm. Bây giờ tôi còn thân với một bà như chị gái” - bà Lý kể.

Không chỉ có hình thức dưỡng lão toàn thời gian, hiện có các trung tâm dưỡng lão ban ngày, các cụ được người thân đưa đến vào buổi sáng, đón về vào cuối ngày hoặc đón về vào các ngày nghỉ cuối tuần. Chị Phương (ở Q.Cầu Giấy, Hà Nội) đang gửi mẹ chồng tới trung tâm dưỡng lão theo hình thức này. Chị cho biết bố chồng chị mất đã lâu, mẹ chồng có hai người con trai, một người con gái nhưng người nào cũng rất bận rộn, bà ở nhà khóa cửa suốt ngày và rất buồn.

“Nửa năm nay mẹ tôi lên trung tâm dưỡng lão ban ngày, cứ sáng đưa mẹ đi, tối đón về, có hôm mẹ ở 3-4 ngày mới về nhà. Ở đó bà có bạn bè, tham gia sinh hoạt tập thể nên thấy rất vui, bà khỏe hơn trước đây” - chị Phương cho biết.

Theo ông Nguyễn Văn Thuần, ngoài chăm sóc về sức khỏe cho các cụ, trung tâm còn nhiều hoạt động chăm sóc tinh thần như tổ chức ngày sinh nhật, ngày thành lập của từng ngành các cụ đã từng công tác, hằng tuần có chương trình tập yoga cười...

Ông Giang Thanh Long - viện trưởng Viện chính sách công và quản lý (ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội) - nói rằng rào cản lớn nhất đối với việc người già vào trại dưỡng lão là quan niệm cũ về chữ hiếu. “Có chuyện sáng người con trai đưa cụ đến, chiều người con gái đón về bởi họ e ngại hàng xóm và người thân xì xào, cho rằng họ bất hiếu. Nhưng ở nhà thì con cái bận việc, người già cô đơn trong chính ngôi nhà của mình”. ■

Nâng cao dịch vụ dưỡng lão

Tại Viện dưỡng lão Bình Mỹ, từ dãy bàn ghế đá được xếp đặt dưới tán cây xanh, cách một con đường là dãy phòng với nhiều ô cửa kính rộng mà ở xa nhìn vào đã thấy vẹn toàn cách bài trí những vật dụng bên trong. Dưới sự hướng dẫn của ông Bùi Anh Trung, tôi biết được đây là phòng vật lý trị liệu với những máy móc, dụng cụ tiên tiến, hiện đại nhằm chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần cho người cao tuổi một cách tốt nhất.

Bên cạnh mục tiêu chính là chăm sóc người già theo yêu cầu, ông Trung cho biết Viện dưỡng lão Bình Mỹ còn mở rộng chăm sóc người già phục hồi chức năng, người già sa sút trí tuệ, người già sau điều trị tại bệnh viện hay mắc bệnh giai đoạn cuối, người già sau tai biến - đột quỵ, trẻ em khuyết tật - tự kỷ.

Ngoài ra, các cụ còn được thăm khám và theo dõi sức khỏe định kỳ. Đặc biệt, các cụ sẽ tham gia các hoạt động ngoại khóa như được dự tổ chức sinh nhật và dự sinh nhật vào tuần 2 mỗi tháng, nấu ăn chung, đi siêu thị cuối tuần, đi du lịch giải trí, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo... nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho các cụ.

Ảnh: Endpoints
Ảnh: Endpoints

Người già rất cần bầu bạn

Tại Viện dưỡng lão Bình Mỹ vào một ngày cuối tháng 6-2019, chúng tôi gặp nhiều trẻ em được bố mẹ dẫn đến thăm ông bà nội/ngoại đang sống tại đây, trong dịp các em được nghỉ hè...

Ở tuổi 102, mái tóc bà Bùi Thị Quyên đã trắng phau, da nhăn nhúm đầy vết đồi mồi, nhưng bà trò chuyện bằng một giọng nói rất rõ ràng. Bà kể, bà có tới 124 đứa con, cháu, chắt đang sinh sống ở nước Pháp.

Phía sau chiếc xe lăn của bà, những bịch nilông lớn nhỏ, phai màu được treo buộc cẩn thận. Bà Quyên với một bịch nilông, đặt nhẹ nhàng lên bàn như một kỷ vật quý giá, mở ra cho tôi thấy cuốn album ảnh chứa hàng chục tấm hình con, cháu, chắt bà đang sinh sống ở Pháp.

Lật từng trang ảnh, bà chỉ vào từng người, mỉm cười tươi tắn khoe: “Mấy đứa con, cháu của tôi đứa nào cũng dễ thương hết. Tụi nó có nghề nghiệp rồi định cư ở bển luôn. Tụi nó cũng thường xuyên về thăm tôi”. Cuộc đời bà Quyên từng đi đi về về các nước Pháp, Campuchia, Việt Nam... Đến tuổi già, bà quay về Việt Nam - nơi bà sinh ra và lớn lên, rồi vào viện dưỡng lão gần một năm qua.

Còn bà Bùi Thị Hiền (67 tuổi, Q.Phú Nhuận) đã năm lần bảy lượt ra vào Nhà dưỡng lão tình thương Vinh Sơn (Q.Bình Thạnh). Bà Hiền cho biết mình sinh được 2 người con, con gái đang sinh sống ở nước ngoài, con trai đã lập gia đình và đang giữ chức phó giám đốc của một cơ quan nhà nước. “Tụi nó đi làm suốt, tôi ở nhà lủi thủi một mình cũng mệt và buồn lắm. Ở đây có nhiều người già như tôi nên có bè bạn tâm sự” - bà Hiền nói.

Hòa vào cuộc sống thường nhật của các cụ sẽ thấy trung tâm dưỡng lão như một xã hội thu nhỏ. Mỗi trường hợp là mỗi hoàn cảnh, số phận khác nhau. Có cụ thì ngại chung sống với con cháu nên tự nguyện vào viện dưỡng lão. Cũng có những cụ bị con cháu gửi vào dưỡng lão như một giải pháp né tránh trách nhiệm.

Trong một thế giới không có nghỉ hưu

LOAN PHƯƠNG 08/06/2019 21:06 GMT+7

TTCT - Dân số trên toàn cầu đang ngày càng già hơn và các phúc lợi xã hội cho tuổi hưu không còn bắt kịp ở khắp mọi nơi, điều khiến tuổi già ngày càng trở thành một viễn cảnh đáng sợ, nhưng tương lai không chỉ toàn màu đen.

Ảnh: Right Angle Studio

Báo Anh The Guardian năm 2017 đã có một bài báo dài khẳng định là “chúng ta (ít ra là ở Anh) đang bước vào một thời đại không còn hưu trí.

Hành trình đi tới thực tế lạnh sống lưng đó chẳng dài lâu gì: thế hệ đầu tiên sẽ trải nghiệm điều đó hiện đang ở tuổi 40-50. Họ lớn lên tưởng rằng họ có thể được nghỉ hưu giống như cha mẹ họ - ngưng làm việc ở tuổi ngoài 60 với một khoản thu nhập kha khá, nhiều thời gian và sức khỏe còn tốt để hoàn tất những ước mơ dang dở”.

Nghỉ hưu: vừa mới vừa cũ

Năm 2010, phụ nữ ở Anh nghỉ hưu ở tuổi 60 và nam giới 65. Tới tháng 10-2020, khi luật mới có hiệu lực, tuổi hưu mới cho cả hai giới là 66, với lộ trình tăng lên 67 vào năm 2028 và đến những năm 2060, dự kiến hầu hết người Anh sẽ còn làm việc tới ngoài tuổi 70.

Các nghiên cứu kinh tế học lạnh lùng cho thấy tất cả mọi người sẽ phải làm việc tới ngoài tuổi 80 nếu muốn được hưởng cùng một chế độ hưu trí như cha mẹ họ hiện giờ. Tức về cơ bản, đó là một thế giới không còn hưu trí nữa.

Việc nâng tuổi hưu đương nhiên tạo ra những bất công xã hội mới. Chẳng hạn, người sống ở các vùng có tuổi thọ trung bình thấp sẽ thiệt thòi so với những vùng có tuổi thọ trung bình cao trong nước.

Nhưng những nhà hoạch định lẫn giới chuyên môn cần phải nhìn xa hơn thế: ở phía chân trời đang là sự tan vỡ hoàn toàn của hệ thống tuổi hưu cố định và mạng lưới phúc lợi không rủi ro, khả đoán như từ trước tới giờ.

Nhìn chung tình hình là giống nhau và không thể tránh khỏi ở khắp nơi trên thế giới trong cuộc khủng hoảng hưu trí. Nguyên nhân cũng thế: tuổi thọ kỳ vọng tăng lên liên tục nhờ tiến bộ y khoa, các kế hoạch hưu trí và phúc lợi tệ hại của chính quyền, và trách nhiệm của chính người lao động khi không tiết kiệm đủ cho đoạn cuối cuộc đời.

Nghỉ hưu là một ý tưởng đã có từ thời cổ đại. Nó từng gây ra một trong những thảm họa quân sự tồi tệ nhất lịch sử đế chế La Mã, khi vào năm 14, sắc lệnh đế quốc tăng tuổi hưu và giảm lương hưu của lính trong các binh đoàn lê dương gây ra cuộc nổi loạn lớn tại Pannonia (nay thuộc Trung Âu) và Đức.

Tuy nhiên, ý tưởng cho rằng người ta có thể ngừng làm việc khi ngoài 60 và tận hưởng hơn 20 năm nhàn nhã lại khá là mới mẻ. Trong phần lớn lịch sử loài người, hầu hết con người đã làm việc tới khi nào thể chất còn cho phép, rồi qua đời không lâu sau đó.

Thay đổi lớn nhất với thời hiện đại có lẽ bắt đầu vào năm 1881, khi thủ tướng Đức Otto von Bismarck có bài phát biểu trọng đại ở quốc hội kêu gọi sự hỗ trợ tài chính từ những người trên 70 tuổi “không còn làm việc được vì tuổi già và bệnh tật”. Bismarck không hẳn là chỉ lo cho người già: ông thực ra chỉ vận động quỹ hưu trí cho người tàn tật, chứ không phải người già nói chung. Thêm nữa, tuổi hưu mà ông đề xuất còn cao hơn tuổi thọ trung bình ở Đức lúc bấy giờ!

Tuy nhiên, Bismarck thực sự có tầm nhìn cấp tiến so với thời đại: ông đề xuất một khoản tiết kiệm hưu trí được phép rút bất cứ lúc nào, nếu người đóng tiền được xác định là không còn làm việc được nữa. Những ai rút sớm hơn phải nhận một khoản tiền ít hơn. Cho tới nay, đó vẫn là nguyên tắc nền tảng cho gần như mọi quỹ hưu trí trên thế giới.

Vượt ra ngoài một con số cố định

Những ý tưởng mới về tổ chức tuổi hưu và lương hưu cũng đã được giới thiệu. Năm 2010 chẳng hạn, Tổ chức New Economics Foundation đề xuất dự án “nghỉ hưu từ từ”, trong đó người lao động mỗi tuần sẽ làm việc ít đi một tiếng trong mỗi năm kể từ năm 35 tuổi.

Ý tưởng ở đây là người lớn tuổi hơn sẽ để công việc lại cho những người trẻ, và khiến việc hoạch định tài chính chặt chẽ, dễ nhìn thấy hơn. Một khoản thu nhập cơ bản phổ quát, trong đó tất cả mọi người đều nhận một số tiền cố định từ nhà nước mỗi năm, dù họ có làm việc hay không, là một ý tưởng khác của việc hỗ trợ lương hưu cho người già.

Tất nhiên, mọi ý tưởng và đề xuất đều có vấn đề của nó, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải dần hình dung và định vị một thế giới rất khác trong tương lai, với những người về hưu, khi mô hình truyền thống không còn đứng vững nữa.

Được nghỉ hưu nhàn nhã và tương đối đầy đủ cũng là một ý tưởng chính trị quá mạnh mẽ, khiến việc tăng tuổi hưu gần như luôn bị phản đối và nghi ngờ. John Macnicol, giáo sư thỉnh giảng ở Trường Kinh tế học London và đồng tác giả cuốn Tuổi già thời tân tự do, phân tích rằng ý niệm về tuổi hưu cũng thay đổi tùy hoàn cảnh và thời đại lịch sử.

 

Ở Anh thời hậu Thế chiến II chẳng hạn, khi lao động thiếu hụt, “ảo tưởng xã hội là thời gian nghỉ hưu là để người già được bù đắp và nghỉ ngơi”. Tới những năm 1990, thái độ với người về hưu thay đổi: từ chỗ coi họ là người nghèo, phụ thuộc vào xã hội và xứng đáng nghỉ ngơi, thành giới có tiền dư dả, ham hưởng lạc, nhiều quyền lực và ích kỷ. Việc tăng tuổi hưu và những tranh luận liên quan, vì thế, phải đặt trong bối cảnh của nó.

Cũng quan trọng không kém một con số tuổi hưu cố định là chất lượng sống của người về hưu. Các công ty tư nhân có những khóa học hỗ trợ người sắp nghỉ hưu chuẩn bị cho sự thay đổi về thu nhập, thời gian, và mối quan hệ, điều mà các nhà nước hầu như chưa tính tới cho nhân viên của mình.

Giới chuyên gia trong lĩnh vực này nhất trí là có 5 trụ cột cho một thời kỳ nghỉ hưu tốt. Thứ nhất là một mức ổn định tài chính tối thiểu. Thứ hai là mạng lưới quan hệ xã hội thay thế cho nơi làm việc. Thứ ba là có được mục đích và thách thức cho phần đời còn lại. Thứ tư là những phát triển với cá nhân - khám phá, nghi ngờ và học hỏi là điều khiến chúng ta là con người, và điều này chỉ nên dừng lại khi ta đã chết. Cuối cùng là tìm niềm vui.

Soi chiếu lại với việc nghỉ hưu ở Việt Nam, thì người ta quan tâm nhiều nhất tới điều đầu tiên, và một chút với điều thứ năm, trong khi quá ít cho những điều còn lại.

Nhưng chính ý tưởng “nghỉ hưu” cũng cần xem xét lại, bởi với cả 5 cột trụ nêu trên, “làm việc một chút” thực ra hiệu quả hơn “nghỉ hoàn toàn”. Ở đây, một cơ chế làm việc linh hoạt trở nên quan trọng. Cơ chế làm việc linh hoạt đương nhiên không mới, và ngày càng phổ biến trong thế giới công nghệ - chia sẻ công việc, họp trực tuyến, làm bán thời gian...

Và “nghỉ hưu linh hoạt” chỉ là một cách nói khác của làm việc linh hoạt. Rất nhiều người không muốn sống suốt 20 năm chỉ “đi ra đi vào”: ở Mỹ chẳng hạn, một nửa những người về hưu nói họ thấy chán và đứng ngồi không yên, 80% những người ngoài 50, độ tuổi đã phải hoạch định về hưu, nói muốn làm việc bán thời gian khi về hưu, và chỉ 16% muốn nghỉ hoàn toàn. Họ tìm kiếm những khung làm việc khác nhau: 2 giờ một ngày, 3 ngày một tuần, 6 tháng một năm... Rất nhiều người cần thêm tiền để trang trải, nhưng đó không phải động cơ duy nhất. Con người có xu hướng định vị bản thân mạnh mẽ gắn với công việc, nghề nghiệp, và sự nghiệp. Nhiều người muốn học hỏi, thử những điều mới, và luôn luôn có cảm giác là mình có ích. Với không ít người, nơi làm việc cũng là nơi giao tiếp xã hội quan trọng nhất, đôi khi là duy nhất.

Vì tất cả những lý do đó, ý tưởng nghỉ hưu như truyền thống - một sự kiện diễn ra một lần trong đời chia cắt vĩnh viễn thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi - không còn nhiều ý nghĩa. Với người lao động, những chương trình linh hoạt mang tới cơ hội pha trộn công việc với những đeo đuổi khác. Với người sử dụng lao động, nó mang tới một đội ngũ lao động giàu kinh nghiệm, linh hoạt, và có thể có chi phí rất phải chăng.

Tóm lại, mọi góc nhìn, của người lao động, người sử dụng lao động, người hoạch định chính sách, giới chuyên gia..., không nên chỉ giới hạn trong những con số tuổi hưu cố định, vì hưu trí chắc chắn không còn là một khái niệm cố định nữa rồi.■

Theo Liên Hiệp Quốc, số người trên 60 tuổi trên toàn cầu dự kiến sẽ tăng gấp đôi từ giờ tới năm 2050, lên 2,1 tỉ người. Vào năm 1950, con số đó là 205 triệu người. “Khi tuổi 65 trở thành tuổi hưu chính thức ở Mỹ, người ta còn chưa sống lâu đến thế - Catherine Collinson, giám đốc điều hành Trung tâm Aegon và chủ tịch Viện Transamerica chuyên nghiên cứu về sức khỏe và hưu trí, phân tích - Giờ thì sống tới 100 cũng không phải chuyện hiếm. Và một giai đoạn nghỉ hưu 30-40 năm rất khác với nghỉ hưu 10-20 năm. Điều đáng nói là ở mọi quốc gia, người làm chính sách, chủ lao động và mọi người dân đều đang phải đối mặt với những ngụ ý trọng đại của sự thay đổi này”.

Ở Nhật Bản, một trong những nước có tuổi thọ trung bình và tỉ lệ người già cao nhất thế giới, Thủ tướng Shinzo Abe đã trình kế hoạch nâng tuổi hưu tối thiểu lên trên 65 và có phúc lợi riêng cho những người hoãn nhận lương hưu tới 70 tuổi. 

Ở Brazil, tuổi hưu hiện cực thấp, 56 với nam và 53 với nữ, được coi là một trong những nguyên nhân quan trọng đẩy nước này vào các cuộc khủng hoảng nợ quốc gia liên tục. 

Ở Đức, tuổi hưu đang là 65 tuổi 7 tháng, và sẽ dần tăng lên thành 67 vào năm 2029. 

Ở Canada, có thể nhận đủ lương hưu ở tuổi 65 và nhận mức thấp hơn từ tuổi 60 và bảo hiểm xã hội mà chủ lao động phải đóng vừa được tăng từ 4,95% lên 5,95% lương của người lao động.

Tuổi nghỉ hưu: Một lưỡng nan kinh tế và xã hội

VŨ THÁI HÀ 01/06/2019 21:06 GMT+7

TTCT - Việc một cá nhân nào đó mong muốn, đặt thành mục tiêu cuộc đời và thực hiện được kế hoạch nghỉ hưu sớm vẫn được xem là một dấu hiệu của sự thành công trong cuộc sống. Nhưng trên bình diện rộng của một nền kinh tế, việc điều chỉnh các chính sách liên quan đến chế độ hưu trí nói chung và tăng tuổi nghỉ hưu nói riêng, luôn là một bài toán lớn và hóc búa đối với các nhà làm chính sách.

 

Lý lẽ tăng tuổi nghỉ hưu

Sau một thời gian dài chuẩn bị, Bộ LĐ-TB&XH, là cơ quan được giao nhiệm vụ soạn thảo dự luật Bộ luật lao động (sửa đổi), đã đưa dự luật ra nghị trường, trong đó đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu là vấn đề đang được cộng đồng xã hội quan tâm ở mức độ rất cao.

Ba lý do mà Bộ LĐ-TB&XH đưa ra để bảo vệ cho đề xuất này là: (1) Dân số Việt Nam (VN) đang già hóa dẫn đến tình trạng thiếu lao động trong tương lai gần; (2) Nguy cơ vỡ Quỹ bảo hiểm xã hội do thời gian hưởng chế độ hưu trí của người đã hết tuổi lao động là quá dài; và (3) Khả năng lao động sau tuổi nghỉ hưu hiện nay của người VN là cao.

Số liệu thực tế ủng hộ cho những lo liệu tính toán này, bởi tuổi thọ trung bình của người VN đã tăng từ 59 (vào năm 1960) lên 73 (vào năm 2014), nhưng tuổi nghỉ hưu vẫn không đổi kể từ năm 1961.

VN cũng được cho là quốc gia đang có chỉ số già hóa dân số cao trong các nước ASEAN với chỉ số già hóa dân số xếp thứ ba, chỉ thấp hơn Thái Lan và Singapore. Con số thống kê và dự báo chính thức vào năm 2014 cũng cho biết đến năm 2032, cứ mỗi 100 người dưới 15 tuổi thì có trên 100 người trên 60 tuổi, là một tỉ lệ rất cao mà hệ quả tất yếu là dẫn tới tình trạng thiếu hụt lao động.

Các tính toán của Bảo hiểm xã hội VN cũng cho biết số năm hưởng lương hưu bình quân của người lao động VN hiện nay đang là 19,5 năm, trong đó nam là 16,1 năm và nữ 22,9 năm, trong đó đóng góp trung bình của một người trong 28 năm là đủ chi trả cho chính người đó trong vòng 10 năm hưu trí; như vậy, thời gian hưởng lương hưu còn lại, khoảng 9,5 năm, sẽ phải lấy từ nguồn đóng góp của các thế hệ sau.

Nhu cầu cấp bách về cải tiến hệ thống chính sách hưu trí

Sự thay đổi về tính chất của việc làm trong bối cảnh dân số già đi đang khiến cho việc liên tục cải tiến hệ thống chính sách hưu trí ngày càng trở nên quan trọng. Hầu hết các hệ thống hưu trí trên thế giới vẫn còn dựa trên quan điểm cho rằng một người cụ thể sẽ tham gia thị trường lao động sau khi học xong, tìm một công việc toàn thời gian ổn định, làm việc ở một nơi duy nhất và về hưu vào một tuổi nào đó, chẳng hạn là năm 65 tuổi.

Khuôn mẫu đó ngày càng kém thực tế và không còn là lựa chọn của người lao động nữa. Giờ đây, quá trình làm việc của người lao động là không liên tục, người ta đổi công việc, áp dụng đủ các loại hợp đồng làm việc khác nhau và làm việc theo các khung thời gian không nhất định.

Các tiến bộ về kỹ thuật công nghệ cũng làm cho thị trường lao động thay đổi sâu sắc, khiến nhiều việc làm biến mất hoặc lỗi thời, đồng thời bắt buộc người lao động phải cải thiện và cập nhật kỹ năng của mình để theo kịp các biến đổi nhanh chóng của môi trường. Nhu cầu cải cách dài hạn đối với chế độ hưu trí vẫn đang hiển hiện ở nhiều quốc gia, đặc biệt là khi mà tuổi thọ của con người ngày càng được cải thiện.

Ứng xử của các quốc gia

Tầm quan trọng của chế độ hưu trí đối với an sinh xã hội của các quốc gia là không thể chối bỏ. Không phải vô cớ mà Tổ chức OECD cứ hai năm một lần lại đưa ra một báo cáo khá chi tiết, quan sát các vấn đề liên quan đến chế độ hưu trí ở các quốc gia thành viên.

Báo cáo mới nhất, năm 2017, của OECD cho biết các xã hội đang già đi cùng với sự thay đổi của tính chất việc làm đang đặt áp lực lên sự bền vững của nền tài chính và khả năng đảm bảo chi trả của các hệ thống hưu bổng. Mức độ chi tiêu công (public expenditure) dành cho hưu bổng so với GDP đã tăng và sẽ tiếp tục tăng nhiều hơn trong tương lai gần ở hầu hết các nước trong OECD. Tính chung toàn bộ khối OECD, khoản chi này đã tăng thêm 2,5% kể từ năm 1990. Hiện tại, Hi Lạp và Ý đã chi hơn 15% của GDP cho hưu bổng.

Sự bền vững của nền tài chính và khả năng đáp ứng đầy đủ chế độ hưu trí luôn yêu cầu các nhà làm chính sách phải xem xét đến các hành động táo bạo, chẳng hạn tăng mức độ đóng góp của người lao động, cắt giảm các phúc lợi phải chi trả và hạn chế các chi trả bổ sung vốn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế vĩ mô. Các quốc gia có thể có các lựa chọn khác nhau, và lựa chọn nào cũng có tác dụng phụ của nó, ảnh hưởng đến các lớp người cụ thể trong xã hội.

Trong bối cảnh chung đó, nhiều quốc gia đã chọn phương án tăng tuổi hưu trí, là phương án có thể được xem là tương đối hài hòa lợi ích giữa các bên: giúp gia tăng lực lượng lao động nhờ sự tham gia của lớp người lớn tuổi, đồng thời vẫn đảm bảo được mức lương hưu.

Các quan sát cho thấy việc thay đổi tuổi hưu sẽ diễn ra ở các quốc gia với các mức độ phát triển về kinh tế khác nhau, chẳng hạn: Mỹ dự kiến tăng từ 66 lên 67 tuổi vào năm 2022, Đức tăng từ 65 lên 67 tuổi vào năm 2030, Hà Lan tăng từ 65 lên 67 tuổi trong giai đoạn 2020 - 2025.

Phần Lan, nơi được cho là có chính sách hưu bổng rộng rãi vào bậc nhất trên thế giới, đã có lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu từ khá sớm, và năm 2019, tuổi hưu trí thấp nhất của người lao động nước này tiếp tục tăng thêm 3 tháng, kết quả là tuổi hưu trí thấp nhất của người Phần Lan sắp tới sẽ là 63 tuổi và 6 tháng.

Trong tình trạng mà sự già hóa của dân số được mô tả như là một quả bom hẹn giờ, người Phần Lan chấp nhận rằng các biện pháp tương tự sẽ ngày càng xảy ra thường xuyên hơn. Thực tế thì tuổi hưu trí ở đất nước này đã tăng vài lần trong những năm qua, để đáp lại các điều kiện về kinh tế và nhân khẩu học (10 năm trước, tuổi hưu trí ở quốc gia này vẫn còn dưới 60).

Trong lúc trông chờ vào các biện pháp khác, có thể mang đến các kết quả dài hạn hơn, việc tăng tuổi hưu trí vẫn được xem là sẽ giúp cho hệ thống chính sách của quốc gia này có thể đứng vững.

Một quốc gia châu Âu khác cũng từng được chú ý khi chọn cách ứng xử đối với chính sách hưu trí: Hạ viện Ba Lan, vào năm 2016, đã thông qua việc ngừng tăng tuổi hưu trí theo lộ trình. Các nhà quan sát ở thời điểm đó cho biết tuổi hưu trí thấp sẽ khiến cho ngân sách quốc gia của Ba Lan phải chi thêm 2,5 tỉ euro vào năm 2018, và tiến đến 5 tỉ euro vào năm 2021.

Ba Lan đã đứng trước khả năng chịu thâm thủng ngân sách vượt quá mức trần mà Cộng đồng châu Âu đặt ra và có thể bị giám sát đặc biệt bằng quy chế Thâm hụt ngân sách quá mức (Excessive Deficit Procedure) của EU vào năm 2017.

 

Cân bằng nào cho lưỡng nan hưu trí?

Là một vấn đề có tầm ảnh hưởng lớn đối với cộng đồng xã hội, việc tăng tuổi hưu trí luôn nhận được những ý kiến trái chiều, nhiều khi là gay gắt. Nếu các nhà làm chính sách quan tâm đến khía cạnh đảm bảo an toàn cho chi tiêu từ ngân sách và duy trì sức làm việc của lực lượng lao động của toàn xã hội, thì cá nhân mỗi người lao động trong xã hội lại quan tâm đến sự công bằng và khả năng duy trì chất lượng sống của bản thân.

Người lao động có quyền thắc mắc, một cách hoàn toàn chính đáng, rằng vì sao họ phải tiếp tục làm việc lâu hơn và chưa được nhận quyền lợi hưu trí của mình khi mà bản thân không còn muốn tiếp tục làm việc do đã đến tuổi nghỉ ngơi. Hơn nữa, mấy chục năm làm việc và đóng góp liên tục cho bảo hiểm xã hội đã là quá đủ để có thể ngừng làm việc và an hưởng tuổi già.

Từ một góc nhìn khác, hoàn toàn tích cực, việc tăng tuổi nghỉ hưu đem đến cho người lao động lớn tuổi nhiều lợi ích. Đầu tiên, tiếp tục làm việc sẽ giúp cho người lớn tuổi có cơ hội sống trong công việc, cống hiến cho xã hội, và vì thế không phải sớm chịu đựng tâm lý của người đứng bên lề xã hội, là tâm lý mà rất đông người nghỉ hưu gặp phải.

Làm việc cũng đem đến thu nhập, thường tốt hơn khoản lương hưu, đảm bảo cho họ có đời sống kinh tế tốt và ổn định hơn. Liên tục sống một cuộc sống có ý nghĩa và duy trì được sức khỏe thể chất cũng là các ưu điểm khác thường được nhắc đến khi nói về việc kéo dài thời gian làm việc người lao động.

Nền tảng kinh tế và an sinh xã hội nói chung chỉ có thể được đảm bảo thông qua các cơ chế và quyết sách có tác động trên diện rộng và tạo hiệu ứng dài hạn, bởi các hoạt động kinh tế và xã hội là liên tục, không ngừng nghỉ và liên đới với nhau trong các mối quan hệ hữu cơ và phức tạp. Mọi biến động của xã hội đều dẫn tới các hệ quả về kinh tế và ngược lại, không sớm thì muộn.

Thách thức dành cho các nhà làm chính sách luôn là cân bằng lợi ích của xã hội, như một tổng thể, với lợi ích của từng cá nhân. Thời điểm rút lui khỏi công việc để nghỉ ngơi là quyết định của cá nhân; việc của các nhà làm chính sách là chọn ra một khuôn khổ hợp lý để lựa chọn của phần đông các cá nhân trong xã hội ủng hộ sự phát triển kinh tế bền vững và đảm bảo an sinh xã hội trong dài hạn.■

Bạn đang đọc trong chuyên đề "TUỔI CAO CHÍ CÀNG CAO"