Chuyện một con chó

ALBERTO MORAVIA (Ý) - 17/07/2014 06:07 GMT+7

TTCT - Il cane cinese (Con chó Trung Quốc) là một trong hàng trăm truyện ngắn được văn hào Alberto Moravia viết vào thập niên 1950, kể về con người và đời sống ở Roma thời hậu chiến.

Minh họa: La Khuê

Được sự đồng ý của NXB Bompiani (*), TTCT chuyển ngữ và giới thiệu.

Mùa đông năm đó, cực cùng túng quẫn không biết đâm đầu vào đâu, tôi xoay sang làm nghề bắt chó. Nhưng chẳng phải đi bắt chó chạy rông ngoài đường như công tác xã hội cho thành phố, mà thường thì chó như thế nhà nước cũng đem về nhốt bỏ mặc cho nó chết. Tôi đi bắt chó của nhà giàu để lấy tiền thưởng.

Tôi đến mấy khu phố sang trọng, vào lúc những đứa giúp việc dẫn chó đi dạo cho chó vệ sinh. Tay tôi thủ sẵn một sợi dây thừng có thắt thòng lọng. Hễ thấy đứa giúp việc nào vừa bước ra đường là tôi lập tức bám theo từ xa. Ai cũng biết mấy đứa giúp việc đầu tắt mặt tối, chẳng có giờ tiêu khiển, do đó chúng lợi dụng những lúc dắt chó ra đường để tán gẫu với bạn gái hay hò hẹn với bạn trai.

Chúng thường thả lỏng cho chó vừa chạy tung tăng phía trước vừa cúi mũi hít hít hay giơ chân lên ở mỗi góc đường. Hễ thấy đứa giúp việc lơ đễnh là ngay lập tức, tôi bay đến cạnh con chó, quăng nhanh thòng lọng vào cổ nó và lôi đi. Cái khó là mang con chó về tới được khu Tormarancio (1) nơi tôi ở. Có khi tôi phải lết bộ, có khi may mắn đi nhờ được taxi của những đứa gần nơi tôi ở, tới được khu Garbatella (2), từ đó tôi đi xe cam-nhông (3) về đến nhà.

Cái nhà!!! Nghe cũng nực cười. Đúng hơn là góc của căn phòng kiểu của những ngôi nhà lụp xụp ở khu Tormarancio, nơi mà thằng bạn thợ thuyền Bonifazi cho tôi mướn với một chiếc ghế bố. Cùng ngủ trong phòng có Bonifazi, vợ nó và ba đứa con. Bởi vậy ban đêm nền nhà trải đầy nệm và nếu cần phải ra khỏi phòng thì bắt buộc có đứa phải ngồi dậy, kéo nệm qua một bên.

Thường thì hôm sau tôi gửi con chó cho Bonifazi xem chừng vì hắn biết chuyện tôi ăn cắp chó, và tôi trở lại khu chung cư nơi mà hôm trước tôi thấy đứa giúp việc bước ra. Tôi kể với người gác dan rằng tôi tìm được một con chó như thế này thế nọ. Lập tức chủ của con chó cho gọi tôi đến, mở cửa cho tôi bước vào căn hộ với hành lang có nền lát toàn đá cẩm thạch và tường treo đầy gương. Lúc đó, cả gia đình chủ con chó ôm quàng lấy tôi để tỏ lòng biết ơn. Sáng hôm sau tôi mang con chó trở lại, người ta thưởng tiền cho tôi... và tôi bắt đầu lại từ đầu.

Một hôm, cũng với sợi dây thừng như mọi khi, tôi ăn cắp được một con chó rất lạ, trước đó chưa bao giờ thấy: trông như một con sư tử, cái đầu to xù, tròn quay như quả bóng, toàn thân thì lông ngắn, cái mõm cụt ngủn và cái lưỡi màu tím sẫm. Con vật rất ngoan nhưng không mấy sinh động, thậm chí có vẻ buồn rầu như đang suy nghĩ lo lắng điều gì đó. Nó cúi đầu đi theo tôi, như biết trước chuyện gì sẽ phải xảy ra cho nó.

Hôm đó trời mưa, trên mình tôi chỉ có mỗi chiếc áo khoác rách rưới và một chiếc áo thun bên trong, chân mang đôi giày đã mòn thủng gót, do đó người tôi ướt sũng đến độ lúc ngồi trên xe cam-nhông tôi lạnh run, hai hàm răng đánh lập cập và khi động đậy mấy ngón chân tôi như vắt được nước từ đôi tất và từ da giày.

Khổ nỗi Tormarancio vốn nằm ở cuối thung lũng cho nên mỗi khi mưa, nhà cửa bị ngập nước hết, do đó hôm ấy thay vì tìm được một chỗ trú ẩn ấm áp trong nhà của Bonifari, tôi chỉ thấy nước mênh mông. Vợ của Bonifazi đang la hét một cách tuyệt vọng trong khi mấy đứa con khóc lóc thảm thiết, và hắn thì đang tìm cách đặt mấy tấm ván để làm cầu khỉ trên nền nhà ngập nước.

Chiều đó tôi đi ngủ với cái bụng đói meo, về đêm bị lên cơn sốt và ngày hôm sau phải nằm liệt giường. Cơn sốt kéo dài trọn cả tuần. Tôi thu mình trên chiếc ghế bố kê trong một góc phòng, dưới hai sợi dây buộc từ vách tường bên này sang vách tường bên kia, trên đó treo lủng lẳng vài bộ áo quần rách tơi tả của tôi.

Trong cơn sốt triền miên, tôi nhìn thấy căn phòng chất đầy những tấm nệm được cuộn lại thành đống trong một góc tường, với vô số dây nhợ giăng loạn xạ khắp nơi, trên đó treo lủng lẳng đủ thứ đồ rách rưới như giẻ rách, nền nhà nhầy nhụa và đầy những chấm đen di động, đó là những con gián mà mỗi khi mưa xuống, chúng chui ra từ các khe hở của những bức tường mục rữa.

Căn phòng hầu như tối mịt, do mưa suốt ngày và hai trong ba cửa sổ lại bị bịt kín bằng giấy cactông thay cho kính đã vỡ. Vợ của Bonifazi nấu ăn ở phòng bên cạnh và tôi cứ một mình thui thủi bên này, nhưng tôi cũng không cảm thấy cô đơn bởi vì khi đang đau ốm tôi cũng chẳng thiết trò chuyện với ai.

Tôi suy nghĩ đủ chuyện trong im lặng. Con chó rất ngoan. Để nó không mắc bệnh vì không khí ẩm thấp lạnh lẽo, tôi gom vỏ bào và giẻ rách lót cho nó một chiếc nệm ổ, đặt ngay phía dưới ghế bố, và thỉnh thoảng tôi thò tay xuống vuốt đầu nó. Tuy bị sốt rất cao, đầu nóng hừng hực nhưng tôi vẫn chỉ nghĩ đến con chó và đôi khi tôi đưa ít tiền cho vợ của Bonafazi để mua thức ăn cho nó. Không phải vì tôi nghĩ đến tiền thưởng mà vì tôi thương thú vật và tôi không thích cảnh chúng phải đói khổ.

Đến ngày thứ bảy thì tôi bắt đầu mê sảng và bị ám ảnh là người ta chỉ muốn lấy mất con chó nên tôi nhờ Bonifazi đem con chó lên nằm chung với tôi trên ghế bố. Hắn vừa để con chó lên ghế bố là tôi lập tức ôm nó thật chặt vào lòng, đút mặt vào bộ lông ấm áp của con chó và thiếp đi trong khi vẫn còn ôm chặt nó, con chó không nhúc nhích cục cựa.

Suốt cả đêm, có lẽ vì bộ lông của con chó mà tôi đổ tháo mồ hôi nhễ nhại đến quần áo ướt sũng vắt ra nước, rồi tôi có cảm giác như trút được cơn bệnh, bởi thế sáng ra tôi dứt sốt. Con chó, suốt cả đêm, cứ nằm khư khư bên tôi và khi tỉnh giấc tôi nghe hơi thở của nó phà vào mặt, chắc tại tôi ôm nó quá chặt nên nó thở hổn hển.

Tôi ở nhà thêm một vài ngày để lấy lại sức, trong khi đó trời nắng trở lại và tôi buộc sợi dây thừng dẫn con chó đi dạo quanh khu nhà ở Tormarancio. Bên ngoài Tormarancio có mấy xóm nhà lá toàn là lều, tệ gấp mấy lần so với nhà ở Tormarancio. Nó tồi tàn đến độ cột nhà là mấy thân cây chéo qua chéo lại, vách làm bằng thiếc lấy từ thùng xăng, mái tôn gợn sóng, xung quanh là mấy bụi cây cơm cháy làm hàng rào, còn cửa ra vào thấp lè tè đến độ muốn vào nhà thì phải cúi đầu bước qua.

Một trong mấy túp lều này là chỗ ở của một tên Trung Quốc, kiểu mấy tay Trung Quốc chuyên bán dạo càvạt rẻ tiền. Mấy năm trước hắn đặt chân đến đây rồi ở lại luôn. Hắn sống chung với một người đàn bà tên Fesseria. Cô này làm nghề xưa nhất trên trái đất, người gầy mảnh khảnh, da trắng bệt, gương mặt dài với cặp lông mày rậm và hai mắt đen nhánh. Cô ta có mái tóc đen và rậm, mềm như lụa và những khi cô thoa chút ít son môi, trông cũng đẹp ra phết.

Tên Trung Quốc thì đúng là Trung Quốc, lùn và thân hình chắc nịch nên nhìn từ phía sau cũng có thể lầm là một người Ý, nhưng nếu hắn quay mặt lại thì đúng là Trung Quốc. Tôi đang cùng con chó đi dạo ngang qua túp lều của tên Trung Quốc đúng lúc cả hai bước ra. Người đàn bà xách một cái xô đầy nước và chỉ một chút nữa là cô ta đã tạt hết vào chân tôi và tên Trung Quốc cầm một cái nồi: lúc nào hắn cũng nấu ăn.

Tên Trung Quốc đến gần tôi và nói tiếng Ý một cách thông thạo: “Đây là một giống chó của xứ tao..., chó Trung Quốc”. Và hắn giảng cho tôi biết rằng loại chó này đầy ở Trung Quốc cũng như ở đây đầy dân không nhà không cửa. Hắn nói rằng nếu tôi muốn, hắn có thể giữ con chó, vì con chó giúp hắn đỡ nhớ quê hương, hắn sẽ nuôi con chó một cách chu đáo. Nhưng hắn không có gì đưa cho tôi để đánh đổi con chó.

Cùng lắm hắn có thể cho tôi hai cái càvạt bằng lụa tự nhiên, nhưng tôi từ chối; nhằm nhò gì mấy cái càvạt, tôi chỉ muốn tiền. Fesseria tay cầm xô nước miệng hét về phía tôi: “Luigi, thế mày không cho tụi tao con chó à?” với dáng điệu khiêu khích, vui vẻ, nhảy từ vũng nước này sang vũng nước khác với đôi chân dài, mảnh khảnh, trắng bóc. Dù rằng trong người cũng chưa khỏe hẳn, nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự thèm muốn người đàn bà mảnh khảnh và trắng bóc với đôi lông mày rậm đậm đen này. Nhưng tôi không nói tiếng nào và trở về nhà của Bonifazi.

Hôm sau tôi trở vô Roma, lại đúng ngay chung cư nơi mà tôi đã thấy con giúp việc dẫn chó đi ra hôm trước. Thiên hạ hay nói... gặp lúc vận xui: “Con chó là của một gia đình Mỹ”, người gác dan nói: “Nhưng họ vừa mới đi đúng hôm qua... Họ cũng ta thán dữ lắm về chuyện con chó... nhưng rồi cũng đành chịu... và họ đi mất rồi”.

Thế là tôi có trong tay một con chó thuần chủng đắt tiền, nhưng tôi cũng chẳng biết làm gì với một con chó như thế. Thoạt đầu tôi tìm cách bán nó nhưng chẳng ai chịu mua: thiên hạ nhìn áo quần tơi tả như giẻ rách của tôi rồi họ bảo là chỉ có ăn cắp tôi mới có một con chó như thế, mà quả cũng đúng thôi.

Mặt khác tôi cũng không muốn đem con chó đến mấy chuồng chó của thành phố, vì vào đó họ cũng để cho nó chết mà thôi, tội quá, mà tôi cũng không thể nào quên cái đêm mà con chó, với bộ lông ấm áp của nó và nằm yên cho tôi ôm, đã chữa cho tôi lành bệnh. Khổ nỗi là nuôi con chó tốn khủng khiếp, bởi vì nó không phải là loại chó nhỏ con và ăn kinh khủng.

Một buổi trưa, thay vì vào thành phố như mọi khi, tôi đi dạo ra khỏi khu Tormarancio. Mấy hôm trước bùn sình lầy lội dưới cơn mưa, bây giờ có nắng nên khu này trở thành một cái hố đầy cát bụi, tôi leo lên một trong mấy gò đất bao xung quanh.

Lúc này cũng đang vào tiết xuân, trên trời không gợn một bóng mây. Bầu không khí êm dịu ngọt ngào và luồng nắng ấm cũng khiến Tormarancio, nhìn từ trên cao xuống, với những dãy nhà dài và thấp có mái đỏ, bớt vẻ giam hãm tù túng như mọi khi. Cỏ non tươi mát xanh thẫm bao phủ gò đất nhìn mãi không chán mắt, vài đốm trắng của hoa cúc dại mọc san sát với nhau che lấp cỏ xanh khiến mới nhìn thoáng qua trông cứ như là có tuyết rơi.

Tôi cứ đi lang thang từ gò đất này sang gò đất khác, tay thọc túi quần, miệng huýt sáo. Vừa qua cơn bệnh nên tôi cảm thấy yêu đời hơn, nhìn phía xa tít tận chân trời đầy ánh sáng với những con bướm trắng đang bay về phía mặt trời, trong tim tôi bừng lên những niềm hi vọng vô cớ. Điều lạ là con chó cũng trở nên sinh động, nó tung tăng chạy nhảy lúc tiến lúc lui, có khi hướng mõm vào tôi sủa inh ỏi. Tuy nhiên vì là một con chó vốn buồn bã và thụ động nên nó chạy nhảy một cách vụng về và nặng nề.

Đi một lúc, tôi bắt đầu xuống dốc hướng về thung lũng, dọc theo một con suối chạy giữa hai gò đất cao. Đến một đoạn thì con chó chợt sủa vang, tôi ngước mắt nhìn lên và thấy Fesseria cũng đang đi dạo một mình, tóc xõa lên hai bờ vai, răng cắn một ngọn cỏ, hai tay đút vào túi chiếc tạp dề làm bằng vải thô. Cô nàng ngừng lại và cúi mình xuống vuốt ve con chó, rồi vừa cười vừa hỏi: “Sao? Mày có cho tụi tao con chó không?”. Tôi đáp vội trước khi kịp suy nghĩ: “Tao cho... nhưng với một điều kiện...”.

Thế là tôi và Fesseria làm tình ngay trên bãi cỏ, giữa hai gò đất cao và bên cạnh dòng suối. Trong khi đó con chó le chiếc lưỡi tím sẫm liếm nước suối, rồi ngồi yên trên bãi cỏ, hơi xa chúng tôi một tí, và nhìn chúng tôi chằm chặp khiến có khi tôi cũng hơi khó chịu. Tôi quyết định đánh đổi như thế chẳng phải chỉ vì tôi thích người đàn bà này, mà tôi có cảm giác đánh đổi con chó bằng một cái giá đượm chút hương vị ái ân: bởi vì tôi cũng mến thương con chó... và tôi nghĩ như thế tôi đã đổi chác con chó với một cái giá phải chăng.

Làm tình xong, chúng tôi đứng dậy và Fesseria nắm lấy sợi dây thừng cột cổ con chó và nói: “Hắn chắc hẳn sẽ hài lòng vì con chó gợi hắn nhớ đến quê nhà”. Tôi đứng yên nhìn theo cô nàng xa dần với con chó, và tôi vẫn còn cảm thấy thèm muốn. Rồi tôi nằm xuống bãi cỏ ngủ thiếp đi độ hai tiếng đồng hồ.

Sáng hôm sau tôi trở vào thành phố và dừng chân lại trong đêm, với một con chó chồn mà tôi đánh cắp ở khu gần quảng trường Santiago del Cile. Đêm đó tôi ngủ ở một nhà trọ công cộng (4) rồi sáng hôm sau trở về Tormarancio. Sau đó, đến trưa, tôi đi dạo với con chó chồn, và vô tình đi ngang qua trước túp lều của tên Trung Quốc.

Fesseria không có ở đó, chắc cô nàng đi vô Roma. Chỉ có tên Trung Quốc, hắn bước ra tay cầm một cái xô rác hất ra phía sau túp lều. Không hiểu vì sao tôi muốn hắn phải cảm ơn tôi về con chó nên cất tiếng hỏi con chó đâu rồi. Hắn cười và đưa tay làm một dấu hiệu mà tôi không hiểu rồi quay nhanh về túp lều. Con chó chồn chạy đến bươi đống rác mà tên Trung Quốc vừa mới đổ. Tôi bước lại gần, bỗng thấy giữa đống rác một cái chân chó còn đủ lông lá, dính đầy máu me.

Tôi nhớ có lần người ta kể là ở xứ của hắn thiên hạ ăn thịt chó, và vì ai cũng ăn nên chuyện chẳng có gì là xấu xa cả. Nhưng lúc ấy tôi thấy đầu tôi như bốc lửa. Tôi nhào vô túp lều. Hắn đang xoay lưng ra ngoài và đang lục tìm cái gì đó trong lò bếp. Hắn quay lại, mỉm cười, tay cầm một cái đĩa trong đó có một thứ thịt sẫm màu với một thứ nước xốt.

Tôi hiểu ngay rằng đó là thịt của con chó và hắn lại còn mời tôi ăn nữa chứ. Điên tiết, tôi cho hắn một cú đấm văng cả cái đĩa vào mặt hắn, và hét lên: “Đồ sát nhân, mày đã làm gì con chó rồi?”. Nhưng tôi chợt nhận ra là hắn không hiểu vì sao tôi lại nổi nóng lên như thế. Hắn lao ra ngoài và chạy trối chết về phía Tormarancio. Tôi nhặt một hòn đá trên đường ném về hướng hắn, rồi đuổi theo và cuối cùng đã tóm được cổ hắn.

Thiên hạ hai bên đường chạy đến. Hắn, với gương mặt thất kinh bám đầy nước xốt của thịt chó, miệng van lơn: “Bà con làm ơn chặn nó lại, thằng này điên rồi”. Trong khi tôi cứ lắc cổ hắn và miệng hét lớn đến khan cả cổ: “Mày làm gì con chó rồi?... Đồ sát nhân... Con chó đâu rồi?”. Sau cùng thiên hạ can được tôi với hắn ra. Bonifazi và vài người nữa đẩy tôi lên xe cam-nhông chạy về hướng Roma.

Hôm đó tôi mang con chó chồn đến cho chủ của nó và họ cho tôi tiền thưởng. Nhưng tôi cũng không trở về Tormarancio. Tôi chẳng có của cải gì trong tay và ở nhà của Bonifazi tôi cũng chẳng để lại cái gì cả. Tôi còn thiếu hắn một tháng tiền phòng và tôi nghĩ như thế là chuyện cũng chẳng đến nỗi xui hoàn toàn. Thêm vào đó chuyện con chó Trung Quốc đã làm tôi kinh tởm cái nghề bắt chó và tôi quyết định đổi nghề.

Tôi xoay sang đi bán dạo, tôi đi lang thang với chiếc xe cút-kít chứa đủ thứ: ôliu ngâm giấm, hạt dưa gang, hạt dẻ khô, đậu phộng rang, sung khô, quả óc chó. Tôi đi bán rong cả ngày, lúc ở đầu cầu, lúc ở trước đường hầm của đồi Gianicolo và cũng tạm đủ sống qua ngày. Hồi ấy lúc nào tôi cũng buồn rười rượi và cảm thấy cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì cả, chắc có lẽ tại chuyện con chó.

Có một lần tôi thoáng thấy Fesseria từ xa, nhưng tôi cũng không gọi. Nếu ngày nào đó tôi biết rằng cô nàng cũng đã ăn thịt con chó, chắc tôi cũng sẽ giết nàng.

Phóng to

Alberto Moravia (1897-1990) bắt đầu nổi tiếng vào năm 1929 với quyển tiểu thuyết đầu tay mang tựa đề Gli indifferenti (Những con người vô cảm) - thể hiện rất rõ nét tính nhỏ nhen đê tiện và đạo đức giả cùng với sự dối trá của xã hội tư sản ở Ý dưới thời phát xít. Tiểu thuyết đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt, một sự kiện văn chương trọng đại: từ năm 1929-1933 sách được tái bản đến bốn lần.

Năm 1935, để tránh những phức tạp với chính quyền phát xít, Alberto Moravia xuất ngoại trong vai trò đặc phái viên báo chí cho tờ Stampa và Gazzetta del Popolo sang Pháp, Anh, Bắc Mỹ, Nam Mỹ. Cũng trong thời gian này ông cho ra đời quyển tiểu thuyết thứ hai mang tên Le ambizioni sbagliate (Những tham vọng sai lầm).

Vào đầu thập niên 1960, một số tác phẩm của Alberto Moravia được chuyển sang thể loại điện ảnh, trong đó có quyển tiểu thuyết đầu tay Gli indifferenti ra mắt công chúng năm 1964 của đạo diễn Ý Francesco Maselli.

Năm 1967 ông du hành sang một số nước châu Á như Nhật, Hàn Quốc và Trung Quốc. Sau chuyến đi Trung Quốc ông đã cho ra đời quyển Cuộc cách mạng văn hóa ở Trung Quốc, một trong những tư liệu hiếm hoi ở Ý thời đó về xã hội Trung Quốc.

Năm 1984 Alberto Moravia được bầu làm đại biểu quốc hội châu Âu trong danh sách đại biểu của Đảng Cộng sản Ý. Alberto Moravia mất ngày 26-9-1990 tại Roma, để lại hơn 30 truyện dài và mấy trăm truyện ngắn, nhiều tác phẩm kịch nghệ, điện ảnh.

THANH GƯƠNG

(*): Alberto Moravia, “Il cane cinese” - tratto da RACCONTI ROMANI

© 1954-2014 Bompiani/ R.C.S. Libri S.p.A., Milano

(1): Tormarancio là một khu phố ngoại ô cách trung tâm Roma khoảng 5-6 cây số. Vào những thập niên 1920, đây là một vùng sình lầy, nơi tạm cư của những người bị đẩy ra khỏi Roma hoặc dân nhập cư đến từ các tỉnh phía nam Ý. Cho đến đầu thập niên 1960, các khu dân cư tạm bợ này mới được giải tỏa để thành phố quy hoạch xây cất.

(2): Garbatella là một vùng ngoại ô, trong đó bao gồm cả khu phố Tormarancio.

(3): Cam-nhông: hệ thống chuyên chở tư nhân ngoại ô Roma cuối thập niên 1940 đầu 1950. Hành khách được chuyên chở bằng xe tải. Mỗi khi đến trạm, lơ xe thòng xuống đất một cái thang để hành khách leo lên leo xuống.

(4): Nhà trọ công cộng: vào những thập niên 1930-1950, ở các thành phố lớn tại Ý, nhà nước có tổ chức những nhà ngủ công cộng để người nghèo hay vô gia cư có chỗ tắm rửa và trú ngụ qua đêm.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận