TTCT - Trong nhà ông Trương Ngọc Tường (thị trấn Cai Lậy, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) hiện lưu giữ các thứ nông cụ lỉnh kỉnh giống như một cửa hàng bán đồ lạc xon. Ông dặn mấy bà ve chai: “Thấy ở đâu có cuốc, cày, dao, mác, phảng, rựa, nơm, chày, sào, (đòn) xóc... gì cứ đem về đây, tui mua giá cao”. Nhờ vậy mà ông có hàng trăm món nông cụ thời khai phá đồng bằng. Phóng to Ông Trương Ngọc Tường nói về sự tích cái thưng đong gạoTTCT - Trong nhà ông Trương Ngọc Tường (thị trấn Cai Lậy, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) hiện lưu giữ các thứ nông cụ lỉnh kỉnh giống như một cửa hàng bán đồ lạc xon. Ông dặn mấy bà ve chai: “Thấy ở đâu có cuốc, cày, dao, mác, phảng, rựa, nơm, chày, sào, (đòn) xóc... gì cứ đem về đây, tui mua giá cao”. Nhờ vậy mà ông có hàng trăm món nông cụ thời khai phá đồng bằng. Các tỉnh ĐBSCL có cuộc triển lãm nào cần trưng bày, ới một cái là ông có liền. Ông nói: “Mình lưu giữ mấy món đồ đơn sơ đó để con cháu sau này có cái mà coi, để biết gốc tích hồi đó cha chú chúng vô Nam khẩn hoang như thế nào. Để chúng ăn chén cơm mà biết hột gạo được làm từ đâu, bằng cách nào, bằng cái gì...”. Từ cái thưng đong lúa Ông lôi trong góc nhà cho tôi coi một vật tròn giống cái tô nhưng bự gấp ba lần, thân làm bằng gỗ mít. Ông nói đó là cái thưng đong lúa thời xưa, tìm gặp trong một lần đi rong ruổi ở miệt Phú Long gần Cai Lậy do một lão nông tuổi đã gần 80 tặng. Lão nông này nói cái thưng có từ hồi đời ông nội ông để lại, lúc ông còn nhỏ đã thấy nó rồi. Có thể nó được làm từ năm 1919. Phóng to Lưỡi hái Nói về sự tích của cái thưng, ông Tường say sưa: “Ngày xưa dân mình xúc gạo cho nhau mượn hoặc đổi cá mắm thường tính bằng muỗng vùa tức gáo dừa đập làm hai, coi đó là thỏa thuận... miệng với nhau, không cần văn bản. Sau đó chúa Nguyễn làm cái đấu và thưng dùng đong lúa gạo. Thời buổi nhiễu nhương, quan quân nhà Nguyễn ăn gian bằng cách làm thưng lớn hơn một chút để đong lúa nộp của dân, còn dùng cái nhỏ lúc đong cho binh lính. Tới thời Minh Mạng, nghe dân khiếu nại quá chừng, vua mới ra lệnh làm cái thưng, cái đấu đúng chuẩn, có qui định ni, tấc đàng hoàng. Lại cho kiểm tra, phát hiện quan quân nào ăn gian thì lôi ra kỷ luật hết. Nhờ vậy mà xã hội dần tạm ổn định. Tới cuối thế kỷ 19, đất đai rộng mở, lúa gạo càng nhiều, nông dân làm ra cái giạ lớn hơn để đong được nhiều, khỏi mất công đong đi đong lại nhiều lần. Cái giạ bự gấp 13 lần cái thưng, tức 26 đấu thì vô 1 giạ. Cái giạ đong lúa hồi đó hình vuông chứ không phải hình ống như bây giờ. Lấy bốn miếng ván đóng ghép lại mà thành”. Ông Tường mở ngoặc: “Sau này, khi thực dân Pháp cai trị, nước ta có chuẩn hóa cái giạ bằng cách qui ra lít, cứ 1 giạ bằng 40 lít cho dễ tính. Rồi lại thay đổi vật liệu bằng tôn kẽm, chuyển qua hình ống cho gọn. Từ đó, dân mình bắt đầu sử dụng đơn vị đong lúa bằng giạ, quen kêu cái thùng đong lúa là “táo”, cứ 2 táo vô 1 giạ. Đa số nông dân hiện vẫn còn quen dùng đơn vị tính số lượng lúa bằng giạ. Ví dụ hỏi “ruộng anh năm nay trúng hay thất, bao nhiêu giạ/công? - Dạ, chừng 15-16 giạ/công” chứ ít ai hỏi “bao nhiêu tấn/ha?”. Cây phảng khẩn hoang Phóng to Thúng đong gạo Nói chuyện một hồi, ông Tường lại lôi trong nhà ra 5-6 cây phảng dài thòng, cán gỗ đen bóng, lưỡi phảng đã gỉ sét. Giá của nó chỉ 70.000-80.000 đồng/cây, nhưng để có một cây ông phải tốn gần... 200.000 đồng tiền xe và 2-3 ngày lội mua. Ông cầm cây phảng giò nai (chỗ từ cán, cổ tới lưỡi bẻ góc cong có hình dáng giống như cái giò nai) lên khoe: “Cây này tôi mua được nhờ ông anh rể ở Trảng Bàng (Tây Ninh). Kế bên có người dọn nhà lòi ra cây phảng, họ quăng lăn lóc trong xó bếp, biết tôi sưu tầm thứ này, ổng nhắn lên lấy. Tiền mua phảng thì ít mà tiền đi xe thì nhiều. Tại vì còn phải làm giấy xác nhận của địa phương để sau này có bằng chứng mà nói sưu tầm nó ở đâu chứ. Ông hồi tưởng: từ gốc của “phảng” là “phạng”. Trong hiện vật truyền thống của người Việt ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ, có hai loại phạng: phạng là vũ khí và phạng để chặt cỏ. Trong tiến trình mở mang bờ cõi vào Nam, cây phạng được cải tiến cho phù hợp, lưỡi dài hơn, cán ngắn hơn. Cách nói lâu dần cũng “trại” đi, thành “phảng” như ngày nay. Cây phảng hầu như gắn liền với đời sống người nông dân thời đó, bởi nó chính là công cụ duy nhất để làm ruộng. Năm 1776, Lê Quý Đôn viết trong Phủ biên tạp lục có ghi nhận vai trò của cây phảng ở vùng đất này rằng chỉ cần dùng phảng phát cỏ rồi cấy là có lúa ăn, cứ cấy 1 hộc thóc thì gặt được 300 hộc. Phóng to Phảng khẩn hoang Quanh chuyện cây phảng, trong những lúc la cà, ông Tường cũng nghe được nhiều câu chuyện thú vị. Tương truyền rằng hồi năm 1945, ở miệt Mỹ Thành Bắc (giáp Đồng Tháp Mười) có ông thủ tọa Giao nổi tiếng là người “phát thế” năng suất cao nhất vùng. Bình thường một người phát giỏi lắm là được 1 công trong một buổi đứng, tức từ 5g sáng tới 13g. Bữa đó, như thường lệ, cô con gái ông chủ đất đem xôi nếp cho thợ phát ăn. Mới 8g sáng mà đã thấy ông nằm gác tay lên phảng ngủ khò. Cô nhìn ra ruộng thấy cỏ cao tới đầu vẫn còn nguyên. Cô kêu ông dậy la mắng một hồi. Ông dụi mắt kêu “cô nhìn kỹ đi, tui phát xong rồi”. Cô quay ra thì thấy cỏ bỗng nhiên ngã rạp một loạt, như có phép mầu. Thì ra ông phát nhanh quá, cỏ đứt rồi mà chưa kịp đổ xuống. Cô hoảng hồn xin lỗi ông rối rít. Sau này người ta đồn rằng ông Giao có nghề võ, lại có sức mạnh phi thường, ông có thể phát nhanh và ngọt, một mình làm bằng 7-8 người. Khi phát cỏ, ông có thế đứng rất vững, hai chân đứng tấn thật chắc, một tay vung phảng theo hình vòng cung, tay kia cầm cây cù nèo vẹt cỏ qua bên, động tác nhẹ nhàng như múa mà lại có sức “công phá” vô cùng. Ngoài ra, ông còn có cách mài phảng cực kỳ độc đáo, làm cho mép lưỡi có những răng cưa nhỏ li ti, một mặt phẳng, một mặt vát, làm cho lưỡi phảng ăn thật “ngọt”, phát cỏ như phát... bùn. Chính vì biết dùng sức, lại vừa biết dùng thế, ông đã nổi tiếng khắp vùng. Có sức làm như vậy, ông Giao cũng có sức ăn kinh khủng. Những ngày không đi phát, ông hay nhận lời làm công việc dọn bàn, dựng rạp cho những đám cưới, ma chay... chỉ để được ăn cơm. Ông có thể làm từ sáng tới tối không ăn, cuối cùng còn bao nhiêu thức ăn của đám, ông “thầu” hết vô bụng. Phóng to Thẻ cấy lúaNgười dân trong vùng đồn rằng ông Giao là đệ tử ba đời của ông tổ phát thế có tên là Cai Thoại, một ông cai đồn điền thời vua Tự Đức. Ông này đi lưu lạc khắp vùng Nam bộ, hễ ở đâu có người kêu phát là ông lãnh. Ông không lấy tiền, chỉ yêu cầu đủ cơm ăn. Ông vác cây phảng to và nặng gấp đôi bình thường, phát suốt ngày đêm, nhịn đói ba ngày, xong việc rồi chỉ ăn một nồi cơm vừa đủ... bảy người ăn. Ông là người khai sinh ra kiểu “phát thế” lưu truyền cho tới đời sau. Hiện trong nhà ông Tường còn đủ loại phảng thời xưa như: phảng giò nai, phảng gai, phảng cổ cò, phảng nắp, phảng cổ lùn... Ông cho biết mỗi loại phảng có một công dụng khác nhau, phù hợp với từng vùng đất sâu, cạn, cỏ cao, thấp, thưa dày, đất cứng, mềm... Ở vùng Đồng Tháp Mười nước ngập sâu nên nông dân thường dùng phảng giò nai, cổ cò để dễ phát sâu dưới nước cho đứt cỏ tới tận gốc. Còn vùng nước cạn như Mỹ Tho, Cái Bè (Tiền Giang), Long Hồ, Mang Thít (Vĩnh Long) thì dùng phảng gai, phảng nắp, phảng cổ lùn thích hợp hơn. ...Tới nọc cấy của vạn hò Phóng to Các loại nọc cấy Lục lọi trong nhà hồi lâu, ông lại ôm ra một đống nọc cấy bằng gỗ đủ loại, đủ cỡ ngắn dài, đủ hình dáng, kiểu cách rất độc đáo. Cầm lên một cây nọc cấy có chạm trổ tinh vi, cán nọc cong vút hình mái ngói cong, ông nói đó là nọc cấy của người Khơme Nam bộ, nó có hình thức đẹp, nét chạm khắc cũng sắc sảo. Ông giải thích: “Các loại nọc ngắn dùng cho vùng đất cạn, dài cho đất sâu, nhọn cho đất cứng, dẹt cho đất mềm... Mấy tay thợ mộc ngày xưa cũng tinh tế lắm. Biết tính chị em mình hay “điệu” nên đẽo ra cây nọc cũng duyên dáng, ẻo lả, vừa thuận tay, dễ sử dụng. Cây nọc có cán nhỏ, vừa gọn trong lòng bàn tay mấy cô, lại có thanh ngang để tựa, vừa đủ nhẹ để ghim xuống đất, vừa chừa chỗ để nắm bó mạ rứt ra từng tép để cấy. Có loại nọc thon, dài, gọi là nọc chìa vôi (vì nó gống như cái chìa dùng đâm nhuyễn trầu cau trong cái vôi ăn trầu của cụ già xưa). Nọc này dùng để cấy ruộng nước ngập sâu. Lại có nọc dài như cây sào, hai đầu nhọn để cánh đàn ông vừa gánh mạ, vừa chọc lỗ cho chị em cấy, động tác khi chọc lỗ như khi đâm chày giã gạo, nên gọi là nọc chày. Một người cầm cây nọc chày có thể chọc lỗ cho 5-6 người cấy một lúc. Nọc cấy cũng gắn liền với đời sống người nông dân Nam bộ vào những năm đầu khai phá đất hoang. “Hồi xưa đâu có đất mềm cấy tay như những năm 1970 sau này. Khi vừa phát cỏ xong là cấy mạ xuống, trong đất lúc đó còn gốc cỏ, rễ cây, chúng đâm tua tủa nhọn hoắt, bén ngót, ngón tay bằng da bằng thịt nào mà thọc xuống đó được, chỉ có nọc cấy làm thay. Vậy là cha ông mình tùy theo đặc điểm từng vùng đất mà chế tác ra nọc cấy phù hợp. Nếu cây phảng thể hiện “đẳng cấp đàn ông” thời đó thì chiếc nọc cấy tượng trưng cho hình ảnh người phụ nữ Nam bộ hiền lành, chịu thương chịu khó”. Ông kể rằng ngày xưa, khi vào mùa cấy, xóm làng miền Nam vui như tết. Mới hừng sáng là từng tốp cô thợ cấy rủ nhau í ới xuống ruộng. Hầu như xóm nào cũng có một nhóm, gọi là vạn cấy, chừng 30 người lãnh làm chung một chủ đất. Người đứng đầu một vạn cấy gọi là bầu, giống như bầu gánh hát vậy, có nhiệm vụ lãnh ruộng, chấm công, lãnh tiền chia cho chị em. Cứ cấy xong một công là bầu cấp cho mỗi người một thẻ cấy, cấy xong thửa ruộng cộng thẻ lại lãnh tiền. (Tôi thật bất ngờ khi ông lôi ra một lô lốc xâu thẻ cấy thật đẹp, thân khắc xà cừ, gỗ đen mun, hệt như những cây trâm cài của các tiểu thư trâm anh đài các). Rồi lại có những vạn cấy đổi công cho nhau, nay làm ruộng này, mai qua ruộng kia trả công lại, thể hiện tình đoàn kết gắn bó tương trợ lẫn nhau của người nông dân. Bởi vậy sau này mình thường nghe nói “vạn vần đổi công” là có tích từ vạn cấy hồi xưa. Những xóm quê có vạn cấy nổi tiếng thời đó là vạn cấy An Hữu, Tân Hội (Cái Bè, Tiền Giang), Bình Hòa Phước (Vĩnh Long)... Bây giờ đi về xóm nào mà thấy có miếu Thần Nông là xóm đó có vạn cấy. Nói tới vạn cấy mà không nói chuyện vạn hò là thiếu sót lớn - ông tiếp tục kể - Hồi đó chị em cấy lúa dưới ruộng là trên bờ thanh niên phải phục vụ gánh mạ, tát nước. Trai gái chọc ghẹo nhau bằng hò đối đáp rất sôi nổi, làm ai nấy quên đi mệt nhọc. Tỉ như: “Hò... ơ... sông Cửu Long con rồng chín khúcTính con người lúc đục lúc trongThương em thương gái má hồngThương người nề nếp, thủy chung một lòng” Khi anh chàng chọc ghẹo: “Có con đừng gả cù laoMột mai sóng gió làm sao nó về” Thì cô nàng đối đáp: “Chú kia nhổ mạ bên cồnNước nôi không có cái mồm khô queo”. Hoặc tài tán tỉnh ngọt ngào của anh chàng: “Đẹp thay cô gái Bình LươngQuanh năm cấy lúa, làm vườn vẫn xinhGái Bình Lương da hồng như mậnGái An Thành giọng ngọt tợ chôm chôm” Hoặc khi trời xế chiều, lại đổ mưa mà muốn cấy nhanh, các vạn hò lại kẻ xướng, người xô theo nhịp hò mái ba dồn dập, làm nhịp cấy nhanh và khẩn trương hơn. Ông như thoáng buồn: “Ngày nay, phương pháp gieo sạ hiện đại đã xóa nhòa hình ảnh những cô thợ cấy xinh tươi ngày xưa, giăng hàng ngang trên thửa ruộng dệt nên những luống mạ xanh rì. Hình ảnh đó nay đã trở thành dĩ vãng. Và những chiếc nọc cấy trở thành kỷ vật”.
Cắt hầu bao các báo, đài công ở Mỹ: Khi khái niệm "của dân" được bảo vệ... NGUYỄN VŨ 13/05/2025 1336 từ
Quốc hội 'chốt' chi hàng chục ngàn tỉ cho cán bộ, công chức nghỉ việc khi tinh gọn THÀNH CHUNG 17/05/2025 Với đa số tán thành, Quốc hội đã biểu quyết thông qua việc đồng ý chi hàng chục ngàn tỉ đồng cho cán bộ, công chức nghỉ việc sau tinh gọn bộ máy, miễn học phí.
Xây dựng chương trình chuyển đổi xe điện cho toàn bộ tài xế công nghệ và giao hàng hai bánh ở TP.HCM THẢO LÊ 17/05/2025 Sau một tháng, Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Văn Được tiếp tục làm việc với Tập đoàn Vingroup để cập nhật tiến độ các đề án chuyển đổi xanh, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Xác minh có sự việc nhân viên xé thẻ lên máy bay của khách Đài Loan ở Phú Quốc, sẽ xử lý CHÍ CÔNG 17/05/2025 Vụ xé thẻ lên máy bay của khách Đài Loan vào hôm 13-5, cơ quan có liên quan ở cảng hàng không quốc tế Phú Quốc (sân bay Phú Quốc) đã báo cáo vụ việc trên lên cấp thẩm quyền xem xét hướng xử lý phù hợp.
Sản phẩm công ty chồng Đoàn Di Băng: Chỉ số chống nắng bằng 4,8% so với nhãn dán, có phải hàng giả? DƯƠNG LIỄU 17/05/2025 Cục Quản lý dược (Bộ Y tế) vừa ra quyết định đình chỉ lưu hành, thu hồi và tiêu hủy toàn quốc lô sản phẩm do công ty chồng Đoàn Di Băng đưa ra thị trường, do chỉ số chống nắng trên nhãn là SPF 50 nhưng kết quả kiểm nghiệm là SPF 2,4.