Nhìn lại lạm phát

TIẾN SĨ TRẦN VINH DỰ 10/07/2011 01:07 GMT+7

TTCT - Báo cáo mới nhất của Chính phủ về tình hình kinh tế sáu tháng đầu năm 2011, được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Võ Hồng Phúc trình bày trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội hôm 30-6, đã đề nghị nới chỉ tiêu lạm phát từ khoảng 15% lên 17%.

Giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Võ Hồng Phúc cho rằng kiềm chế được lạm phát ở mức 17% là “rất khó khăn”.

Phóng to
Lạm phát khiến thu nhập thực tế của người dân từ đầu năm đến nay giảm 13,3% - Ảnh: Thanh Đạm

Đây là lần thứ ba liên tiếp trong năm nay Chính phủ nới chỉ tiêu về lạm phát. Trong lần điều chỉnh đầu tiên cuối quý 1, chỉ tiêu về lạm phát được điều chỉnh từ 7% lên 11,75%. Lần thứ hai từ 11,75% lên 15% vào cuối tháng 5 và lần thứ ba từ 15% lên 17% vào cuối tháng 6.

Không còn nghi ngờ gì nữa, lạm phát là bài toán vĩ mô hóc búa nhất của năm nay.

Thuế ngầm và kỷ luật ngân sách

Vậy câu chuyện lạm phát kia là gì và tại sao nó lại là bài toán vĩ mô hóc búa nhất của năm nay? Liệu đã có ai tính toán cụ thể 1-2% lạm phát mà Chính phủ đề nghị “điều chỉnh” sẽ ảnh hưởng thế nào đến dân chúng?

Lạm phát, theo cách hiểu giản đơn nhất, là việc mặt bằng giá cả trong nền kinh tế tăng liên tục theo thời gian. Nó khác với việc giá cả tăng vọt trong một giai đoạn ngắn do một biến cố độc lập nào đó (như việc tăng lương tối thiểu) và sau đó không tăng lên nữa. Điểm khác biệt này hết sức quan trọng vì nếu việc tăng giá (bao gồm cả giá nhân công) chỉ xảy ra một lần (và đồng bộ) rồi thôi, thì trên nguyên tắc không ảnh hưởng gì tới người dân.

Lý do là thu nhập danh nghĩa (tính bằng tiền) của người dân tăng lên theo một tỉ lệ nhất định nhưng mặt bằng giá cả cũng tăng lên đúng như vậy, vì thế thu nhập thực tế (đo bằng khả năng mua hàng hóa và dịch vụ của thu nhập danh nghĩa) vẫn như cũ.

Thế nhưng đúng như định nghĩa của lạm phát, nó không phải là việc tăng mặt bằng giá cả một lần duy nhất, mà là một quá trình liên tục và thông thường là bất đối xứng. Giá cả hàng hóa và dịch vụ, bao gồm cả giá nhân công, tăng trong một giai đoạn dài và mức độ tăng không giống nhau.

Tính bất đối xứng của việc tăng giá khiến một số doanh nghiệp hoặc một số người có thể hưởng lợi từ lạm phát khi giá cả các sản phẩm của họ tăng nhanh hơn mặt bằng chung, đặc biệt tăng nhanh hơn chi phí đầu vào. Ngược lại, cũng có nhiều doanh nghiệp hoặc cá nhân bị thiệt hại vì lạm phát khi giá bán sản phẩm của họ không tăng kịp với tốc độ tăng giá chung.

Đối với tuyệt đại bộ phận những người sống bằng lương, lạm phát là một tai họa vì tiền lương thường không điều chỉnh nhanh như giá hàng hóa và dịch vụ. Thí dụ như lương tối thiểu ở Việt Nam thường chỉ được điều chỉnh một hoặc hai năm một lần. Sau khi được điều chỉnh, người lao động phải chờ một thời gian dài nữa thì tiền lương của họ mới có hi vọng tăng. Trong suốt quá trình đó, lạm phát sẽ bào mòn thu nhập thực tế của họ vì sức mua của thu nhập danh nghĩa giảm dần do giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng lên.

Với một người sống bằng lương, nếu tiền lương của họ từ đầu năm tới nay không tăng thì lạm phát ở Việt Nam đã khiến thu nhập thực tế của họ giảm tới 13,3%. Đây là một con số vô cùng lớn với giới trung lưu và người nghèo. Chính phủ do vậy có lý do để lo ngại về cuộc sống đang ngày càng khó khăn đối với người dân, tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn xã hội. Cũng vì lý do này, lạm phát vẫn được coi là thứ thuế ngầm (và nguy hiểm) đánh vào giới trung lưu, nhất là vào 4,6 triệu hộ nghèo và cận nghèo - tức hơn 22% dân số cả nước.

Thế nhưng thứ thuế ngầm này từ đâu mà có? Lạm phát là một hiện tượng kinh tế, vì thế nó là sản phẩm của hành vi con người, quan trọng nhất là các quyết định điều hành vĩ mô của nhà nước. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khi thảo luận về kinh tế - xã hội sáu tháng đầu năm đã nói thẳng: bên cạnh những nguyên nhân khách quan từ kinh tế thế giới, các yếu tố chủ quan như thâm hụt thương mại lớn, bội chi ngân sách cao nhiều năm, hiệu quả đầu tư thấp... mới là nguyên nhân chính, trong đó có cả vấn đề về lập dự toán và thực thi kỷ luật ngân sách.

Biểu đồ về CPI Việt Nam năm năm qua
(số liệu đầu vào của IMF và Tổng cục Thống kê Việt Nam)

Phóng to
Liệu CPI của Việt Nam năm 2011 sẽ tiếp tục đi xuống vào nửa sau của năm như hồi năm 2008 hay sẽ lại đi lên dần từ tháng 8 giống như hồi năm 2007, 2009 và 2010? Điều này phụ thuộc vào việc Chính phủ có tiếp tục thắt chặt tiền tệ hay không

Cơ hội để giải quyết các vấn đề nền tảng

Để lý giải lạm phát ở Việt Nam một cách đơn giản nhất, hãy bắt đầu từ chỗ nền kinh tế Việt Nam trong một giai đoạn dài luôn ở mức tới hạn khả năng sản xuất (tức không còn các nguồn lực dư thừa). Trong điều kiện tới hạn khả năng sản xuất, để tăng GDP thì cần tập trung vào các yếu tố nền tảng nhằm tăng năng suất lao động, khai thác tốt hơn các nguồn lực hiện có.

Tuy nhiên, cuộc chơi tăng năng suất lao động là cuộc chơi nan giải và chỉ thành công trong dài hạn. Việt Nam đã chọn cho mình một hướng đi dễ dàng hơn thông qua việc bơm liên tục đầu tư (cả công và tư) và tăng chi tiêu của Nhà nước để đẩy GDP trong ngắn hạn. Điều này cũng tương tự thay vì nuôi con vịt cho lớn một cách bình thường (khá mất thời gian), thì lại nhồi bánh đúc để nó tăng cân đột biến.

Vì năng lực sản xuất đã ở mức tới hạn, việc bơm tiền qua đầu tư và chi tiêu công không làm gia tăng sản lượng được bao nhiêu, ngược lại làm tăng giá vì lượng tiền trong nền kinh tế đột nhiên tăng lên mà lượng hàng hóa sản xuất không tăng tương ứng.

Hoặc nếu sản lượng có tăng trong ngắn hạn do Nhà nước tăng tiêu dùng khiến tổng cầu tăng đẩy giá ngắn hạn tăng theo, trong khi tiền lương chưa điều chỉnh kịp khiến các nhà sản xuất có lợi hơn khi sản xuất nhiều hơn thì về dài hạn, tiền lương cũng sẽ được điều chỉnh tăng khiến sản lượng lại bị co về đúng bằng mức cân bằng dài hạn. Và như thế việc tăng chi tiêu công khi nền kinh tế đang ở mức tới hạn khả năng sản xuất chỉ khiến giá cả tăng mà thôi.

Chính vì thế, để giảm lạm phát ở Việt Nam phải cắt giảm đầu tư và/hoặc chi tiêu công như là một mũi tên bắn trúng ba đích: (1) Giảm đầu tư công cũng dẫn tới việc thu hẹp tài trợ ngân sách bằng cách tăng cung tiền; (2) Giảm đầu tư công bằng cách tăng các tiêu chí về hiệu quả đầu tư sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư công và (3) Giảm đầu tư công và chi tiêu công để chấm dứt hiệu ứng chèn lấn (crowd out), tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển. Trong sáu tháng tới, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng Chính phủ nên rà soát và cắt giảm đầu tư khu vực công nhiều hơn nữa, vì “dư địa của chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát không còn bao nhiêu”.

Để tăng trưởng bền vững thì không thể dựa vào các biện pháp nhồi vịt. Việt Nam phải tập trung cải cách thể chế kinh tế để tăng năng suất lao động, coi đây là động lực của phát triển lâu dài. Chính phủ đã thể hiện rõ quyết tâm thắt chặt cả tín dụng và tài khóa trong năm nay. Các động thái thắt chặt tiền tệ của Chính phủ rất rõ ràng và tới nay đã bắt đầu phát huy tác dụng. CPI đã hạ nhiệt từ mức đỉnh điểm 3,32% trong tháng 4, tháng 5 xuống 2,21% và tháng 6 là 1,09%.

Vấn đề là bài toán thắt chặt tài khóa hầu như vẫn chưa thực hiện được bao nhiêu. Thêm nữa, việc hạ nhiệt của CPI có thể khiến có những đề nghị nới lỏng chính sách tiền tệ. Điều này, nếu thực hiện, sẽ khiến CPI tăng mạnh trở lại và do vậy vẫn có lý do để lo ngại cho kinh tế vĩ mô của Việt Nam năm nay. Như thế cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam một lần nữa bỏ lỡ cơ hội tận dụng giai đoạn khó khăn để tập trung giải quyết các vấn đề nền tảng nhằm tăng năng suất của cả nền kinh tế.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận