Những cội rễ cần được chẩn trị

PHẠM THỊ LY 30/12/2018 17:12 GMT+7

TTCT - Hai “cơn tai biến” nghiêm trọng nhất của ngành giáo dục năm 2018 có thể được gọi tên: 231 cái tát và tiêu cực thi cử quy mô lớn ở Hà Giang. Hai sự kiện này không chỉ nổi bật mà còn có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó làm sáng tỏ nhiều vấn đề có ý nghĩa cốt lõi cần được thảo luận để giáo dục có thể đi tới.

MH

Bạo lực và nhục hình học đường

Bạo lực và nhục hình học đường không phải là vấn đề gì mới. Cô bắt trẻ uống nước giặt giẻ lau, cô không nói lời nào ba tháng liền, phụ huynh xông vào lớp bắt cô giáo quỳ… Nhưng 231 cái tát vẫn gây chấn động nhân tâm và cần được mổ xẻ để nhận thức đầy đủ.

Vì sao? Không chỉ vì mức độ tàn nhẫn trong bạo hành thể xác, mà vì cách cô giáo chọn hình phạt. Việc dùng quyền lực để buộc 23 học sinh thực thi bạo lực là một cách thức trái ngược đến cực điểm với tất cả mọi mục tiêu giáo dục cơ bản.

Trừng phạt bằng những cái tát chính là dạy cho học sinh rằng bạo lực là cách duy nhất hoặc tốt nhất để giải quyết vấn đề. Không em nào dám phản ứng, nghĩa là các em đã bị buộc phải học bài học khuất phục trước quyền lực, bất kể đúng sai. Đáng sợ hơn, khi bị phê phán, hiệu trưởng chỉ nghĩ đến việc che giấu công luận, không nghĩ đến nạn nhân, đến hậu quả, đến nguyên nhân sự việc, càng không nghĩ đến việc thay đổi hiện trạng đó.

Chỉ trích, trừng phạt cô giáo, hiệu trưởng hay lãnh đạo ngành là việc quá dễ dàng, nhưng không bảo đảm những vụ việc tương tự sẽ không tái diễn.

Bởi ngay sau đó là 50 cái tát ở Hà Nội, là cô giáo đánh bầm người một trẻ khuyết tật lớp một ở Long An, là thầy giáo đánh trẻ lớp một nhập viện ở Đắk Lắk. Những vụ việc như thế nếu chỉ phơi bày, chỉ “chỉ đạo xử lý nghiêm”, chỉ phê phán mà không động chạm đến nguyên nhân thì dẹp xong vụ này sẽ nảy ra vụ khác, vụ sau tàn nhẫn hơn, che giấu khéo léo hơn.

Những kẻ có bản chất độc ác côn đồ vẫn có thể mặc áo giáo viên. Những người phạm lỗi do thiếu hiểu biết, do nóng giận, do những ẩn ức bị đè nén vẫn không được hỗ trợ để thoát ra. Những thầy cô có lương tri và yêu nghề sẽ thêm nản lòng vì những nỗ lực của họ không được nhìn nhận và đánh giá đúng.

Nếu không có cách giải quyết ở tầm mức hệ thống, xã hội sẽ tiếp tục tìm cách giải quyết vấn đề ở tầm mức cá nhân: cho con học trường tư, trường quốc tế, thậm chí ra đi để con cái được hưởng một nền giáo dục bình thường ở nước người.

Vì thế, khi bạo lực học đường đã không còn là chuyện cá biệt thì cần xâu chuỗi những hiện tượng này lại, đặt nó trong bối cảnh của những thiết chế xã hội đã điều chỉnh cách vận hành của nhà trường, của những chuẩn mực và giá trị đang chi phối mối quan hệ giữa người với người trong xã hội để tìm ra mối liên quan và nguyên nhân đích thực của nó.

Lý giải hiện tượng này, tiến sĩ Lê Nguyên Phương, tác giả cuốn sách Dạy con trong hoang mang, cho rằng bên cạnh ảnh hưởng bởi văn hóa “thương cho roi cho vọt” của người Việt, tâm trạng bất an, sợ hãi có vai trò không nhỏ: học sinh sợ giáo viên, giáo viên sợ hiệu trưởng, hiệu trưởng sợ lãnh đạo cấp trên, lãnh đạo cấp trên sợ mất thành tích, bởi mất thành tích có thể dẫn đến mất chức.

Bất an và sợ hãi nuôi dưỡng sự tức giận và bạo hành, nên ức hiếp những kẻ yếu thế hơn chỉ là biện pháp trút xả những ẩn ức bị đè nén. Những biện bạch rằng bạo hành thể xác trong nhà trường là cách “thương cho roi cho vọt” đã không còn có thể chấp nhận trong xã hội hiện đại.

Và bởi có một sự khác biệt lớn giữa những trừng phạt có mục đích giáo dục với những trừng phạt độc ác thực chất là trút xả ẩn ức. Câu hỏi cần trả lời là từ đâu mà có nhiều bất an và sợ hãi đến thế trong giáo dục?

Con người ở đâu và thời nào cũng có những nỗi bất an và sợ hãi. Nhưng khác biệt chính là ở mức độ và ở cách mà con người nhận thức về nó, bộc lộ nó, xử lý nó, vượt qua nó.

Cái phanh giúp người ta kiềm chế những hành động bột phát gây tổn thương cho người khác chính là những chuẩn mực giá trị trong xã hội, được chuyển hóa thành giá trị bên trong của mỗi người. Những giá trị đó chính là cái đã thúc đẩy chúng ta hành động chính trực, là điểm tựa để người ta vịn vào đứng dậy khi vấp ngã, khi hoang mang.

Tiêu cực thi cử ở Hà Giang

Tiêu cực thi cử cũng không phải là chuyện mới mẻ gì ở Việt Nam, nhưng quy mô và mức độ như ở Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình trong năm 2018 thì có lẽ vượt xa mọi thời đại.

Tăng chi phí và bất bình đẳng, giảm chất lượng giáo dục, xói mòn các tiêu chuẩn đạo đức... những tác hại đó ai cũng thấy. Khi những em chỉ 2 điểm cũng có thể vào được đại học, tiếp tục hối lộ để ra trường với tấm bằng, rồi lại leo cao, ngồi vào những vị trí quyết định số phận người khác, người ta còn biết tin vào cái gì nữa?

Bản thân tiêu cực thi cử đã là một nghịch lý thách thức cả xã hội. Điểm lại quy trình và thủ tục thi sẽ thấy tầng tầng lớp lớp rào cản được đặt ra để phòng ngừa tiêu cực.

Nó cho thấy bộ không tin sở, sở không tin trường, trường không tin giáo viên, không tin người chấm thi, không tin người vào điểm, người coi thi không tin thí sinh. Toàn bộ kỳ thi đã được tổ chức trên cơ sở bất cứ ai, bất cứ khâu nào cũng có thể xảy ra tiêu cực, cần quy trình chặt chẽ để ngăn chặn, phòng ngừa. Thế mà con voi vẫn chui lọt lỗ kim!

Tiêu cực thi cử ở Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình đã làm việc thi cử trong thực tế trở thành méo mó, nếu không nói là mất hết ý nghĩa tốt đẹp của nó. Nó khiến mọi bằng cấp đặt trước chất vấn đắng chát: đâu là thật, đâu là giả. Trong tình trạng thật giả hay dở lẫn lộn đó, ai còn muốn học hành đàng hoàng nghiêm túc nữa?

Nói cho cùng, bằng giả có đất dụng võ là vì trong xã hội người kém năng lực chuyên môn nhưng giỏi nịnh bợ, mua chuộc vẫn có chỗ tiến thân. Nếu bằng giả là vô dụng, nếu không có năng lực thì dăm bữa là bị sa thải liệu còn ai mua điểm, chạy bằng?

Và nếu không ai mua, làm sao có người bán? Tiêu cực trong thi cử vì thế không chỉ là vấn đề kỹ thuật, nó còn là vấn đề của động cơ, của các nhóm lợi ích, của tình trạng loạn chuẩn mực trong xã hội. Cải cách khảo thí không khó, cái khó hơn nhiều chính là thay đổi cái gốc tạo ra tình trạng này.

Những nỗ lực cần sự hỗ trợ

Nhưng tất cả những nặng nề trên không cản trở ta thấy được những nỗ lực đổi mới của Bộ GD-ĐT, của các trường và đặc biệt là những cố gắng hằng ngày của hàng triệu thầy cô giáo. Bộ là nơi đã có những phản ứng nhanh trước các vụ việc nóng bỏng, nhưng phần lớn mới chỉ xử lý chuyện tức thời, chưa chú ý tới gốc rễ của vấn đề để có giải pháp triệt để.

Tuyển sinh đại học là lĩnh vực nhiều xáo trộn, hứng chịu nhiều phê phán nhất của xã hội vì nó chạm đến từng nhà, lại là nơi chằng chịt các nhóm lợi ích.

Nhưng nhìn vào cả quá trình dài trong phát triển chính sách, cũng thấy bộ đã tiến một bước dài từ chỗ quyết định thay cho các trường bằng Ba chung (chung ngày, chung đề, chung kết quả) đến chỗ giao toàn quyền tự chủ cho các trường.

Chính sách đối với tự chủ đại học cũng đã tiến bộ. Khi được chủ động hơn, các trường đã có động lực cạnh tranh và giành uy tín trên quốc tế qua đầu tư cho nghiên cứu khoa học, tham gia kiểm định và xếp hạng toàn cầu.

Tất cả những nỗ lực ấy, có thể gọi là thành quả nhất định, chưa đáp ứng được kỳ vọng của các bên. Muốn “đổi mới căn bản toàn diện” giáo dục, cần nhấn mạnh rằng đổi mới căn bản phải được hiểu là thay đổi nhận thức về giáo dục, còn đổi mới toàn diện nghĩa là thực hiện thay đổi có hệ thống, chứ không phải là đuổi theo từng vụ việc để xử lý hậu quả.

Chỉ Bộ GD-ĐT không thể tạo ra đổi mới căn bản toàn diện trong giáo dục. Cuộc đổi mới ấy chỉ thành hiện thực với sự đóng góp của tất cả các bên, trong đó có phụ huynh học sinh, không chỉ bằng nguồn lực vật chất mà còn bằng trí tuệ, lòng can đảm, sự kiên trì và niềm tin vào sức mạnh của giáo dục đích thực. ■

Chúng ta đang sống trong một bối cảnh mà nhiều chuẩn mực, giá trị đang bị đảo lộn, nhiều tín điều bị thách thức và dễ đổ vỡ. Giáo dục là nơi đặc biệt nhạy cảm với những điều này. Những bất thường mà ta thấy có thể chỉ là cơn sốt ngoài da, biểu hiện một nguyên nhân sâu hơn chính là nhận thức sai lầm về sứ mệnh của giáo dục. Giáo dục không phải chỉ nhằm tạo ra những công nhân lành nghề, những kỹ sư, bác sĩ, luật sư trình độ cao, những nhà khoa học. Trước khi trở thành công nhân, kỹ sư, nhà khoa học, họ phải được học làm người - điều mà ta vẫn thường nói, nhưng chưa nói ra được cụ thể thế nào là “làm người”. Làm người trước hết phải là biết đúng biết sai. Nếu không bắt đầu từ việc xác quyết lại về sứ mệnh của giáo dục trên cơ sở xây dựng niềm tin vào công lý, vào nhiệm vụ bảo vệ lẽ phải và vun trồng cái thiện của giáo dục thì tất cả mọi giải pháp đều sẽ chỉ là chắp vá.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận