Đồng vợ đồng chồng, đồng bệnh

PHẠM HẰNG 07/10/2025 11:09 GMT+7

TTCT - Sự đồng điệu trong cuộc sống chung của mỗi cặp vợ chồng không chỉ tạo nên sự gắn kết, mà còn tạo nên sự tương đồng cả về sức khỏe tinh thần, thể chất, thậm chí ảnh hưởng đến cả sức khỏe của thế hệ sau.

Đồng vợ đồng chồng, đồng bệnh - Ảnh 1.

Ảnh: NEWS MEDICAL

Mối quan hệ vợ chồng, dù là viên mãn hay bất hòa, đều có liên quan đến hạnh phúc của mỗi cá nhân như sự hài lòng với cuộc sống, chất lượng cuộc sống, nguy cơ mắc bệnh tật và tử vong. 

Liệu trong thời gian dài gắn bó, sức khỏe của mỗi cá nhân có ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn đời hay không? Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ đặc biệt này và mở đường cho cách tiếp cận mới trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh mạn tính.

Từ sức khỏe tinh thần

Một nghiên cứu công bố trên Nature Human Behaviour hồi tháng 8-2025 đã thực hiện phân tích quy mô lớn về mối tương quan giữa vợ chồng trong chín loại rối loạn tâm thần: tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực, trầm cảm, lo âu, rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), tự kỷ, rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD), lạm dụng chất gây nghiện và chán ăn tâm thần.

Các tác giả thu thập dữ liệu từ hơn 6 triệu cặp đôi tại Đài Loan, Đan Mạch và Thụy Điển, qua nhiều thế hệ và nền văn hóa khác nhau. Kết quả cho thấy: khi một người trong hôn nhân được chẩn đoán mắc một trong các rối loạn nói trên, khả năng người còn lại cũng mắc cùng loại rối loạn cao hơn đáng kể so với mức kỳ vọng ngẫu nhiên.

Mặc dù có sự khác biệt về văn hóa và hệ thống chăm sóc sức khỏe ở ba nền kinh tế trên, kết quả thống kê trên toàn bộ tập dữ liệu đều tương tự nhau, và nhất quán qua nhiều thế hệ (chỉ có một số khác biệt khi nói đến OCD, rối loạn lưỡng cực và chán ăn).

Lý giải về kết quả này, Chun Chieh Fan tại Viện Nghiên cứu não bộ Laureate (Mỹ), đồng tác giả, cho rằng có 3 yếu tố tác động: (1) chúng ta thường có xu hướng chọn bạn đời giống mình; (2) định kiến xã hội về việc mắc chứng rối loạn tâm thần làm hạn chế sự lựa chọn bạn đời của một người; và (3) những cặp đôi sống chung lâu dài trong cùng một môi trường có xu hướng trở nên giống nhau hơn.

Việc chọn ra yếu tố quan trọng nhất là rất khó khăn và các nhà khoa học vẫn chưa rõ nguyên nhân khiến con người mắc chứng rối loạn tâm thần, có thể là sự kết hợp cả yếu tố di truyền và môi trường.

Hạn chế của nghiên cứu là không phân biệt được các cặp đôi gặp nhau trước hay sau khi được chẩn đoán mắc bệnh lý tâm thần. Tuy nhiên, nghiên cứu này đủ mạnh và trên một nhóm người đủ lớn để đưa ra cảnh báo có ý nghĩa về sức khỏe tâm thần.

Đặc biệt, khi nhóm nghiên cứu tiếp tục phân tích các thế hệ tiếp theo được sinh ra ở Đài Loan, họ phát hiện ra rằng trẻ em có cả cha và mẹ cùng mắc một chứng rối loạn tâm thần, có nguy cơ mắc chứng bệnh này cao gấp đôi so với trẻ chỉ có một cha hoặc mẹ mắc bệnh. 

Điều này có ý nghĩa quan trọng về mặt di truyền khi phần lớn các nghiên cứu trước đây cho rằng sự kết hợp giữa các cặp đôi chủ yếu là ngẫu nhiên. Tuy nhiên, từ nghiên cứu này lại đặt ra một vấn đề mới cần bàn luận, khi những người mắc chứng rối loạn tâm thần nhẹ hoặc tiềm ẩn thường có nhiều khả năng đến với nhau hơn.

Trước đó, tháng 4-2025, trên trang Springer Nature Link cũng công bố một nghiên cứu về ảnh hưởng của cha mẹ đến nguy cơ mắc bệnh lý tâm thần ở con cái. Mẫu gồm các trẻ em từ 6 đến 17 tuổi (90 trẻ có cha mẹ mắc chứng rối loạn lưỡng cực, 41 trẻ có cha mẹ mắc chứng tâm thần phân liệt) và nhóm đối chứng 107 trẻ có cha mẹ bình thường. 

Các nhà nghiên cứu đã dựa vào các đánh giá lâm sàng và công cụ thống kê, để theo dõi sự khởi phát của các bệnh lý tâm thần và các triệu chứng cận lâm sàng. Họ cũng xem xét ảnh hưởng của một số yếu tố liên quan đến cha mẹ như tình trạng kinh tế - xã hội, chức năng tâm lý xã hội và tuổi sinh con. 

Kết quả sau bốn năm theo dõi, các nhà nghiên cứu nhận thấy trẻ em trong nhóm có cha mẹ mắc chứng rối loạn lưỡng cực và tâm thần phân liệt đều có nguy cơ mắc chứng rối loạn tâm thần cao gấp đôi so với nhóm đối chứng.

Những kết quả trên cho thấy hệ quả cho thế hệ sau nếu cả cha và mẹ đều mắc các bệnh lý tâm thần. "Cần phải nghiên cứu thêm trước khi các bác sĩ tâm thần thay đổi cách tư vấn rủi ro di truyền về các rối loạn sức khỏe tâm thần cho bệnh nhân" - William Reay, nhà di truyền học thống kê tại Viện nghiên cứu y khoa Menzies ở Hobart (Úc), nói với Scientific American.

Khi một trong hai người vợ/chồng gặp vấn đề, người kia có thể là một phần nguyên nhân hoặc là giải pháp
PGS Lindsay Peterson (Đại học Nam Florida)

Đến sức khỏe thể chất

Không chỉ sức khỏe tinh thần mà những người bạn đời gắn bó lâu năm còn có nhiều khả năng mắc các bệnh lý mạn tính tương tự nhau. Điển hình, một nghiên cứu công bố trên trang Scientific Reports hồi tháng 2-2024 đã kiểm tra sự tương đồng của bệnh tiểu đường loại 2, tiền tiểu đường và hội chứng chuyển hóa (gồm huyết áp cao, tăng nồng độ lipid máu, béo phì, rối loạn đường huyết) ở 1.173 cặp vợ chồng người Đức. Trong số này có 3 cặp đôi đồng tính, 1.080 cặp đôi đã kết hôn và chung sống. Trung bình các cặp đôi đã kết hôn trong 39,7 năm.

Các chỉ số được khảo sát gồm HbA1c - chỉ số để đánh giá lượng đường huyết trung bình của một người trong khoảng 2-3 tháng gần nhất, chỉ số mỡ máu (cholesterol, HDL, LDL, triglyceride), vòng eo, huyết áp và BMI. 

Ngoài ra, thông tin về tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, mức tiêu thụ rượu, chế độ ăn uống, tình trạng hút thuốc, thể thao, tình trạng sức khỏe và việc sử dụng thuốc được thu thập thông qua các cuộc phỏng vấn và bảng câu hỏi.

Kết quả cho thấy nếu một người bị tiền tiểu đường hoặc tiểu đường thì bạn đời của họ có khả năng mắc bệnh tiểu đường cao hơn 1,46 lần so với bạn đời của người không mắc bệnh. Mối liên hệ này từ mức trung bình đến mạnh ở các cặp vợ chồng có các yếu tố nguy cơ như trình độ học vấn thấp, béo phì, chế độ ăn uống kém và hút thuốc lá.

Ngoài ra, một người bị mắc hội chứng chuyển hóa thì tỉ lệ mắc bệnh ở bạn đời của họ cũng tăng lên so với bạn đời của người không mắc. Đây là một trong số ít nghiên cứu hiện nay cho thấy mối liên hệ giữa vợ/chồng với bệnh lý tiền tiểu đường, tiểu đường loại 2 và hội chứng chuyển hóa.

Lý giải về kết quả này, một bài phân tích tổng hợp quy mô lớn về quan hệ hôn nhân và nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 đăng trên trang Spinger vào tháng 2-2025 đưa một vài giả thiết. Đáng chú ý có thể do một chuỗi mối quan hệ nhân quả mà căng thẳng kéo dài làm trung gian - một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và hội chứng chuyển hóa thông qua phản ứng viêm.

Đơn cử, khi vợ/chồng mắc bệnh tiểu đường sẽ khiến bạn đời phải thay đổi chế độ ăn uống, thường xuyên lo lắng về nguy cơ vợ/chồng mắc các biến chứng cấp cứu như hôn mê do tăng/hạ đường huyết đột ngột hoặc các biến chứng lâu dài như tổn thương tim mạch (xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, đột quỵ), bệnh thận đái tháo đường dẫn đến suy thận, biến chứng mắt (võng mạc, đục thủy tinh thể, glaucoma), biến chứng thần kinh gây tê bì, đau, loét chi… Điều này có thể khiến bạn đời của họ cảm thấy căng thẳng, thậm chí là đau khổ kéo dài nếu các biến chứng này xảy ra thường xuyên.

Mặt khác, nếu hôn nhân bất hòa thì nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tăng lên ở cả hai vợ chồng, vì chuyện cơm không lành canh không ngọt là một yếu tố nguy cơ gây trầm cảm và thúc đẩy tình trạng viêm. Ngoài ra, những người sống trong cuộc hôn nhân căng thẳng nhiều khả năng gặp vấn đề về giấc ngủ, đây cũng là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh tiểu đường.

Từ mối quan hệ tương đồng này, phương pháp tiếp cận tập trung vào cặp đôi có thể mang lại những lợi ích vượt xa cách tiếp cận truyền thống lấy bệnh nhân làm trung tâm trong việc phát hiện và điều trị bệnh tiểu đường. 

Các chương trình tầm soát bệnh tiểu đường trong tương lai, có thể được mở rộng đến vợ/chồng của người bệnh. Điều này cho phép phát hiện và điều trị bệnh tiểu đường ở giai đoạn sớm, dẫn đến kết quả điều trị tích cực hơn, cũng như chủ động ngăn ngừa biến chứng và làm giảm tỉ lệ tử vong. 


Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận