Phình động mạch chủ ngực

TTCT - Bà Lê Thị T., 86 tuổi, ở Bến Tre, nhập viện vì đau ngực trái trong một tháng. Triệu chứng được mô tả là đau ngực sau xương ức, lan qua lưng, đau liên tục, âm ỉ, không giảm, khi nằm nghỉ không khó thở.

Phóng to
Phẫu thuật điều trị bệnh phình động mạch chủ ngực tại Trung tâm tim mạch Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM

Bà được kiểm tra và phát hiện căn bệnh phình động mạch chủ (ĐMC) ngực, một bệnh lý nặng và nguy hiểm đến tính mạng.

Tỉ lệ tử vong cao

Sau khi làm các xét nghiệm và chụp phim CT ngực bụng có cản quang, bác sĩ xác định đường kính túi phình là 65cm (bình thường dưới 4cm). Vị trí túi phình ở đoạn quai xa và đoạn đầu ĐMC ngực xuống.

ĐMC ngực chia thành ĐMC ngực lên, quai ĐMC, ĐMC ngực xuống. Phình ĐMC là tình trạng thành ĐMC thoái hóa, yếu đi và phình to ra. Khối phình sẽ tăng dần kích thước theo thời gian, lớn quá có thể chèn ép và làm tổn thương mạch máu, thần kinh lân cận, gây ra tình trạng rối loạn tưới máu khu vực.

Cục huyết khối dễ hình thành trong túi phình, khi rời ra trôi theo dòng máu có thể gây tắc mạch làm tổn thương cơ quan hoặc đột quỵ. Khi khối phình bị nứt hoặc vỡ sẽ gây xuất huyết, giảm cung cấp máu cho các mô. Vỡ phình ĐMC ngực thường gây mất máu nhanh, nhiều, trụy tim mạch, tụt huyết áp và tử vong nếu không được xử trí kịp thời.

Phình ĐMC ngực đang trở thành bệnh khá phổ biến khi các bệnh lý mãn tính như đái tháo đường, tăng huyết áp xuất hiện ngày càng nhiều. VN chưa có thống kê nhưng tại Mỹ, tần suất phình ĐMC ngực là 6-10 trường hợp/100.000 dân, trong đó 60% phình ĐMC ngực đoạn lên, 10% phình quai ĐMC và khoảng 30% phình ĐMC ngực xuống.

Có đến 70% bệnh nhân không điều trị sẽ bị biến chứng vỡ túi phình, tỉ lệ tử vong 90%.

Hình vẽ mô tả phương pháp điều trị cho bà Lê Thị T. - Ảnh tác giả cung cấp

Điều trị bằng phương pháp mới

Phương pháp điều trị tiêu chuẩn của phình quai ĐMC ngực là phẫu thuật, đòi hỏi phải sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể, hạ thân nhiệt, ngưng tuần hoàn. Tuy nhiên, đây là một phẫu thuật rất lớn, nhiều nguy cơ, thời gian hồi sức kéo dài, tỉ lệ tử vong cao, biến chứng nặng.

Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM đã áp dụng phương pháp đặt giá đỡ có phủ cho ĐMC ngực (phương pháp TEVAR). Giá đỡ được cấu tạo bởi hợp kim nickel - titanium, có phủ sợi polyester. Giá đỡ đặt vào ĐMC giúp loại trừ đoạn động mạch bệnh lý, tạo nên độ vững chắc cho thành mạch, giảm nguy cơ vỡ túi phình và điều chỉnh dòng chảy trong lòng mạch đúng với sinh lý.

Phương pháp TEVAR giúp tránh được việc phải sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể, giảm nhiều nguy cơ cho bệnh nhân.

Trường hợp túi phình nằm ở đoạn quai ĐMC là nơi xuất phát của những mạch máu nuôi não nên đặt giá đỡ có thể gây cản trở các mạch máu này. Vì vậy, trước khi tiến hành đặt giá đỡ, bác sĩ phải phẫu thuật tái tạo toàn bộ các nhánh của quai ĐMC.

Trước đây, cần phải chẻ xương ức, mở ngực để thực hiện cầu nối từ ĐMC ngực lên đến các động mạch não. Ngày nay các bác sĩ đã thực hiện tái tạo toàn bộ quai ĐMC mà không cần mở ngực. Việc tạo các cầu nối cho hệ thống mạch máu nuôi não được thực hiện qua các đường rạch da ở cổ, giúp cho ca mổ “nhẹ nhàng” hơn nhiều. Sau đó tiến hành đặt giá đỡ có phủ cho quai ĐMC.

Các bác sĩ rạch da ở đùi, đưa giá đỡ qua động mạch đùi đến vị trí thích hợp ở ĐMC ngực. Cũng thời điểm đó, giá đỡ cho động mạch thân cánh tay đầu (mạch máu đưa máu lên não) cũng được đưa vào qua động mạch nách phải (giá đỡ này gọi là “ống khói”). Khi hai giá đỡ đã ở đúng vị trí, cùng một lúc, hai giá đỡ được bung ra, vừa đảm bảo đặt được giá đỡ cho ĐMC, vừa đảm bảo thông suốt cho mạch máu nuôi não.

Phương pháp tái tạo toàn bộ quai ĐMC không mở ngực phối hợp đặt giá đỡ có phủ trong điều trị phình quai ĐMC ngực là phương pháp mới có nhiều hứa hẹn vì ít biến chứng, tỉ lệ tử vong ngắn hạn thấp.

Trường hợp của bà T. sau khi điều trị hồi phục nhanh chóng, tỉnh táo hoàn toàn, không yếu liệt tay chân, không dấu hiệu tổn thương thần kinh, xuất viện sau sáu ngày nhập viện. Tái khám một tuần sau, bà T. có thể sinh hoạt bình thường, ăn uống được, không còn đau ngực.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận