Biển Đông: Những lựa chọn pháp lý của Việt Nam

PHAN VĂN SONG 13/10/2019 22:10 GMT+7

TTCT - Gần ba tháng nay, tàu Hải Dương địa chất 8 (HYDZ-8) của Trung Quốc (TQ) ngang nhiên khảo sát địa chấn trong khu vực gần bãi Tư Chính, tàu hải cảnh TQ cũng nghênh ngang quấy phá các hoạt động thăm dò khảo sát dầu khí của Việt Nam (VN) ở lô 06/01. Cả hai khu vực này đều nằm sâu bên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của VN.

Bản đồ 1: EEZ mà TQ muốn đòi theo cách của họ (theo Poling).

Chính phủ VN đã có nhiều nỗ lực tìm cách giải quyết các vụ xâm phạm qua đường ngoại giao ở nhiều cấp, nhưng xem ra phía TQ vẫn càng lấn tới. Phải chăng đã tới lúc VN có những động thái rõ ràng hơn?

Khu vực hoạt động của các tàu TQ cách đảo Hải Nam từ 480 đến hơn 600 hải lý, cách quần đảo Hoàng Sa mà họ đang chiếm đóng và cũng tự cho là có EEZ từ 350 đến 480 hải lý, cách đảo Ba Bình (đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa mà phán quyết ngày 12-7-2016 của Tòa trọng tài (PCA) kết luận là không thể có EEZ, mà chỉ có lãnh hải 12 hải lý) từ 170 đến 310 hải lý.

Còn lô 06/01 cách những nơi đó còn xa hơn nữa: cách Hải Nam, Hoàng Sa, Ba Bình tương ứng 624-640, 495-520, 345-370 hải lý.

Do đó, không thể viện dẫn bất kỳ quy định nào trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) để nói hai khu vực này thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của TQ vì lãnh hải, EEZ, thềm lục địa không thể vượt khỏi lãnh thổ đang có chủ quyền quá 12, 200 hay 350 hải lý, thậm chí không thể vượt quá trung tuyến tương ứng (có điều chỉnh gần đảo hơn theo nguyên tắc công bằng) khi có chồng lấn với bên khác.

Lưu ý thêm rằng lô 06/01 cách bãi Tư Chính, một bãi ngầm với chỗ cạn nhất cách mặt biển 16m, khoảng 25 hải lý. 

Theo luật quốc tế thì bãi ngầm được xem là phần của đáy biển, không sở hữu được và do đó cũng không thể sinh ra quyền gì. Bất chấp những thực tế đó, TQ vẫn ngang ngược nói rằng các vùng biển mà tàu họ đang hoạt động phi pháp thuộc quyền tài phán của họ.

Do đó, để chuẩn bị cho các hành động pháp lý khả dĩ thì VN trước nhất phải bác bỏ lập luận này của họ, tức là phải xác lập được rằng khu vực đang bị xâm phạm thuộc về EEZ của riêng VN, không dính dáng gì đến các vùng biển của TQ.

TQ đã ký kết và phê chuẩn UNCLOS nên bị ràng buộc bởi các quy định của điều ước này, trừ những quy định mà họ đã tuyên bố bảo lưu. Do đó, VN hoàn toàn có thể học tập kinh nghiệm của Philippines và làm theo các thủ tục quy định trong mục 2 phần XV của UNCLOS.

Nhưng cụ thể là những gì? Điều này phụ thuộc vào lập luận cụ thể của TQ. Hiện TQ cố ý mập mờ, không đưa ra lý giải cụ thể, nên chỉ có thể suy đoán dựa trên các tuyên bố đã biết và hành động của họ.

Tuyên bố mới đây ngày 18-9-2019 của Bộ Ngoại giao TQ cho rằng đòi hỏi phi lý của họ là căn cứ theo luật và lịch sử. Các khu vực này, như đã phân tích ở trên, không thể dựa vào quy định nào trong luật quốc tế và UNCLOS để khẳng định TQ có quyền gì ở đó.

Do đó, thứ luật mà họ nói chỉ có thể là luật của TQ hay luật quốc tế giải thích theo cách của TQ. Còn lịch sử mà họ dựa vào cũng chỉ là lịch sử do họ thêu dệt. 

Sự thật lịch sử cho thấy TQ chưa bao giờ độc quyền trong việc sử dụng Biển Đông hay thể hiện bất cứ quyền gì, dù theo nghĩa lỏng lẻo nhất, trên biển này, đặc biệt là ở các khu vực họ đang xâm phạm, ngoại trừ những hành vi bắt nạt trong vài năm gần đây.

Bản đồ 2: Vùng biển mà các thực thể trên Biển Đông có quyền tài phán theo phán quyết giả định chỉ là các đốm xanh, bác bỏ tuyên bố của TQ trong bản đồ 1, chưa cần xét chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. (Lưu ý: EEZ hai bên đoạn từ cửa vịnh Bắc Bộ tới Hoàng Sa chồng lấn chưa phân định nên tạm vẽ theo trung tuyến).
Bản đồ 2: Vùng biển mà các thực thể trên Biển Đông có quyền tài phán theo phán quyết giả định chỉ là các đốm xanh, bác bỏ tuyên bố của TQ trong bản đồ 1, chưa cần xét chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. (Lưu ý: EEZ hai bên đoạn từ cửa vịnh Bắc Bộ tới Hoàng Sa chồng lấn chưa phân định nên tạm vẽ theo trung tuyến).

Có thể tham khảo các suy đoán do Greg Poling, giám đốc Tổ chức Sáng kiến minh bạch biển châu Á (AMTI), đưa ra trên Twitter hôm 19-9-2019 với các khả năng sau:

- TQ cho rằng quần đảo Trường Sa mà họ nhận vơ là của họ có lãnh hải, EEZ... như một thể thống nhất và vạch đường cơ sở chung, để từ đó phóng ra các vùng biển này như đã làm với quần đảo Hoàng Sa, mặc dù luật lệ quốc tế và UNCLOS không cho phép như vậy và phán quyết của Tòa trọng tài đã khẳng định điều đó.

- TQ gom Tư Chính cùng các bãi ngầm khác quanh đó vào quần đảo Trường Sa và cho rằng “quần đảo” mở rộng như thế cũng có lãnh hải, EEZ... chung như thể thống nhất và cũng vẽ đường cơ sở chung, rồi từ đó phóng ra lãnh hải, EEZ... như trên, dù luật lệ quốc tế và UNCLOS chỉ xem những bãi ngầm như thế là phần của đáy biển, không sở hữu và đòi chủ quyền được.

- TQ vẫn đang dùng “đường lưỡi bò” với cái gọi là quyền lịch sử để đòi tất cả mọi thứ bên trong đường này, dù tránh đề cập tới nó trong các phát ngôn sau khi phán quyết của Tòa trọng tài trong vụ kiện của Philippines năm 2016 khẳng định nó không có cơ sở luật pháp quốc tế và vô hiệu lực.

Có thể thấy các suy đoán trên dựa vào luật và lịch sử “kiểu TQ”. Đường cơ sở chung trong hai cách đầu có thể suy ra từ tuyên bố của TQ ngày 15-5-1996 về đường cơ sở và lãnh hải. 

Còn đường cơ sở lạ lùng bao cả các bãi ngầm để tính lãnh hải, EEZ... có thể suy từ tuyên bố về lãnh hải của TQ ngày 4-9-1958.

Tuyên bố này nói tới việc vẽ đường cơ sở cho cả Macclesfield, môt bãi ngầm mà TQ gọi là “quần đảo” Trung Sa, có chỗ cạn nhất cách mặt biển hơn 9m! 

Tuyên bố phê chuẩn UNCLOS ngày 7-6-1996 của TQ có thể dùng để suy đoán việc đòi EEZ tối đa, rồi thương lượng phân giới sau. Tuyên bố đó nói rằng “TQ được quyền hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán trên EEZ 200 hải lý và thềm lục địa”.

Bản đồ 1 cho thấy các EEZ mà TQ có thể đòi theo hai cách lý giải đầu, từ các kiểu đường cơ sở thẳng khác nhau mà nhóm của Poling vẽ ra vào tháng 3-2019. Có thể thấy các EEZ này phủ kín hầu hết diện tích “đường lưỡi bò”, thậm chí có nhiều phần vượt quá “đường lưỡi bò”.

Việc TQ duy trì yêu sách “đường lưỡi bò”, dù không nói rõ ra, có thể suy đoán từ các hành động hiếp đáp ngư dân, cấm đánh cá đơn phương, hoạt động quấy nhiễu của tàu hải cảnh và tàu khảo sát TQ sâu trong EEZ hay ở những khu vực biển mà các EEZ theo hai cách suy đoán đầu không phủ tới của các nước ven Biển Đông từ sau phán quyết 2016.

Đặc biệt, điều 14 luật về EEZ và thềm lục địa ngày 26-6-1998 của TQ cùng các tuyên bố gần đây có nói tới quyền lịch sử sau phán quyết 2016 cũng cho thấy suy đoán cuối về yêu sách “đường lưỡi bò” vẫn cần xét tới.

Hiện nay, như đã nói, TQ vẫn mập mờ, không nêu cụ thể họ dựa vào điều gì để yêu sách như thế, nên có nhiều khả năng họ áp dụng cả ba cách nêu trên để khi đuối lý cách này thì còn viện tới cách kia. 

Lưu ý thêm Hội Luật quốc tế của TQ, trong thư ngày 19-9-2019 trả lời thư mở của Hội Luật quốc tế VN ngày 24-8-2019, có vẻ cũng gần như lý giải theo các cách đã nêu. Họ cũng đề cập tới quyền lịch sử, coi quần đảo Trường Sa là một thể thống nhất với đường cơ sở chung, có nội thủy, lãnh hải, EEZ, thềm lục địa...

Hội này là một tổ chức ngoại vi trong hệ thống Nhà nước TQ, nên ý kiến của họ có thể xem như một lý giải bán chính thức của TQ. 

Do đó, nội dung tranh luận có lẽ phải bao gồm tất cả điều trên, tức là phải nhờ trọng tài xác nhận lại “đường lưỡi bò” là vô hiệu lực, quần đảo Trường Sa không thể coi là một thể thống nhất để đòi lãnh hải, EEZ... và không được phép vẽ đường cơ sở chung để làm điều đó, không có thực thể địa lý nào trong quần đảo này có EEZ, thực thể địa lý ngầm như bãi Tư Chính thì không thể đòi sở hữu, và cũng không thể coi những điều đó là trường hợp riêng ngoài quy định của UNCLOS.

Theo UNCLOS, “mọi quyết định [của tòa/trọng tài] chỉ có hiệu lực ràng buộc giữa các bên tranh chấp và trong vụ tranh chấp cụ thể đó” (điều 296.2). Phán quyết trọng tài trong vụ kiện của Philippines cũng tuân đúng theo quy định này.

Ngoài những nội dung trên, VN có thể tranh thủ nhờ trọng tài khẳng định những nội dung tương tự cho quần đảo Hoàng Sa với lý do TQ hà hiếp ngư dân VN, quấy rối việc thăm dò, khảo sát dầu khí trong EEZ của VN gần quần đảo này mà các biện pháp giải quyết qua đường ngoại giao như tham vấn, trao đổi... không có kết quả.

Ở đây cũng có thể thêm nội dung nhờ trọng tài khẳng định quyền đánh cá của ngư dân VN trong ngư trường truyền thống Hoàng Sa (lẫn Trường Sa).

Nếu được cơ quan pháp lý quốc tế có thẩm quyền xác nhận những nội dung trên, bất chấp chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa thuộc về ai, các khoảnh biển mà hai quần đảo này được có theo luật lệ quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, chỉ là những đốm xanh (lãnh hải của các đảo nổi) tương ứng trong bản đồ 2.

Do đó, EEZ của VN (phần tô tím) chồng lấn không đáng kể các khoảnh biển đó, chủ yếu tại lãnh hải của một vài đảo nổi mà thôi. Như vậy, chưa cần xét tới chủ quyền Trường Sa và Hoàng Sa thì tuyên bố của TQ rằng khu vực HYDZ-8 khảo sát hay lô 06/01 thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của họ vẫn là hoàn toàn sai trái.

Tóm lại, VN có thể kiện theo nội dung và cách thức gần như Philippines đã làm. Đặc biệt, trong vụ kiện của Philippines có nội dung về bãi Cỏ Rong, vốn là bãi ngầm cách mặt biển từ 9 - 45m trong EEZ của nước này, tình trạng rất tương tự với bãi Tư Chính của VN. Philippines đã thắng thì cơ hội VN thắng còn cao hơn. 

Vấn đề cuối cùng là tính thời điểm: làm sao để vừa không lỡ cơ hội, vừa tối ưu hóa kết quả và hạn chế các tác động xấu chắc chắn sẽ có. Điều này tùy thuộc vào sự cân nhắc thiệt hơn của các cấp có trách nhiệm trên tinh thần mang lại điều tốt nhất cho đất nước và nhân dân.■

(Bài viết được những ý kiến đóng góp quý báu của GS Phạm Quang Tuấn và TS Dương Danh Huy)

NHỮNG CÂU HỎI CÒN LẠI

Do lập luận của TQ dựa vào việc cho rằng họ có chủ quyền với toàn bộ quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa), thế sao VN không kiện thẳng họ về chủ quyền cho dứt điểm mọi thứ?

Trong quan hệ  quốc tế, mỗi nước là một thực thể có chủ quyền, nên có quyền chọn cách giải quyết tranh chấp theo ý mình, tòa chỉ xử được khi các bên liên quan tự nguyện chấp nhận cùng nhau ra tòa (trực tiếp qua các tuyên bố đơn phương, qua các thỏa thuận riêng, hoặc gián tiếp qua các điều ước quốc tế đã kí kết).

TQ không là ngoại lệ và rất tiếc là họ đã tuyên bố chỉ chọn cách “tham vấn hữu nghị” hay đàm phán song phương để giải quyết tranh chấp liên quan đến chủ quyền, không chấp nhận cách nhờ tòa phân xử. Do đó, hiện nay việc kiện TQ về chủ quyền là bất khả, trừ khi họ có một chính phủ biết lẽ phải hơn.

Từ đó, có thể nẩy ra câu hỏi: Đồng ý rằng không kiện được chủ quyền, thế sao không gác vấn đề chủ quyền lại, rồi kiện nhờ trọng tài xác định phân định ranh giới biển cho khu vực biển giữa VN và TQ cho tiện việc? 

Rất tiếc là cũng không thể kiện TQ về việc phân giới, vì họ đã dựa vào điều 298 UNCLOS tuyên bố không chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc liên quan tới phân giới biển từ 25-8-2006.

Cũng lưu ý rằng dù luật có quy định các điều liên quan đến kiện tụng, nhưng những người soạn luật vẫn muốn các bên hạn chế việc giải quyết tranh chấp thông qua tòa án. Do đó, trong luật có quy định nhiều điều kiện các bên phải thỏa mãn trước khi đưa tranh chấp ra trước tòa. 

Chẳng hạn, phải chứng minh đang có tranh chấp và các bên đã nỗ lực hết mức đề giải quyết tranh chấp qua thương lượng, tham vấn ngoại giao… nhưng không đạt kết quả. Hơn nữa, việc kiện tụng cũng phải không bị ràng buộc bởi những thoả thuận mà các bên đã kí.

Về việc thực hiện các biện pháp tiền kiện tụng thì có vẻ chính phủ VN cũng đã tiến hành đúng mức. 

Đối với ràng buộc của DOC, trọng tài vụ Philippines kiện TQ đã xác định rằng điểm 5 và toàn bộ lời lẽ trong DOC không hề có nội dung nào loại trừ việc tìm kiếm phương thức giải quyết tranh chấp khác ngoài tham vấn và thương lượng song phương. 

Thỏa thuận 11-10-2011 cũng gần tương tự, dù chưa qua soát xét của trọng tài, nhưng chắc sẽ có cùng kết luận.

 

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận