Tăng trưởng 2 con số: Tham vọng và những quan ngại

TRUNG TRẦN 22/11/2025 18:25 GMT+7

TTCT - Với tham vọng tăng trưởng 2 con số, bộ máy điều hành kinh tế có rất nhiều việc phải làm để biến tham vọng đó thành hiện thực.

a - Ảnh 1.

Ảnh: The Motley Fool

Khi được yêu cầu xây dựng kế hoạch kinh doanh trung hạn 3 năm, trong bối cảnh hiện nay, phụ trách kinh doanh của các công ty FDI thường đối diện với câu hỏi thường trực của ban giám đốc: Các anh chị chỉ đặt ra mức tăng trưởng 3-5% trong khi GDP của Việt Nam đã và sẽ tăng trưởng từ 7-10% ít nhất trong vòng 5 năm, theo như các con số thống kê chính thức. Lý lẽ, logic nằm ở đâu?

Những chênh lệch về dự báo

Đương nhiên dự thảo kế hoạch tăng trưởng bị trả về và làm lại. Kinh doanh thì phải có trả giá, nâng lên đặt xuống, nhưng khoảng cách tăng trưởng mục tiêu giữa sếp và nhân viên lệch đến gấp đôi như thế, phần nào phản ánh tham vọng và quan ngại về mục tiêu tăng trưởng, dù ở tầm doanh nghiệp hay quốc gia.

Mức tăng trưởng dự kiến 2 con số được các phương tiện truyền thông chính thống đưa ra cho năm 2026, và các năm sau đó, dựa trên quyết tâm sắt đá của toàn bộ hệ thống chính trị và các đánh giá lạc quan về tình hình hồi phục của kinh tế thế giới, sự gia tăng của nguồn vốn FDI vào Việt Nam, và động lực chủ quan chính yếu đóng vai trò dẫn dắt là đầu tư công.

Ở phía bên kia, với sự thận trọng cố hữu, các tổ chức tài chính quốc tế đề ra con số bảo thủ hơn, thấp hơn từ 2 đến 3 điểm phần trăm, tức dự báo tăng trưởng ở mức tốt chỉ vào khoảng 7% cho năm 2026. Mọi dự báo đều có thể sai, nhất là với nền kinh tế vĩ mô, vốn gồm quá nhiều biến số và rủi ro khó lường. 

Ví dụ, năm 2024, khi mức tăng trưởng của Việt Nam đạt 7,1% thì dự báo của Ngân hàng Thế giới chỉ là 6,5%. Năm nay tình hình có thể cũng tương tự, khi số liệu 3 quý đầu năm, tăng trưởng đã xấp xỉ 7,8% (dự báo của các định chế tài chính quốc tế chỉ vào khoảng 6,7%).

Với đà tăng trưởng khả quan như thế, cộng thêm các chính sách, giải pháp quyết liệt và thực dụng của Chính phủ, mức độ tăng trưởng 8-10% dường như không quá tầm tay với, và "buộc phải hoàn thành", khi nó đã trở thành nghị quyết của Quốc hội và không có phương án B, tức không nghĩ đến một kịch bản thấp hơn.

Chất lượng của tăng trưởng

Sự tự tin của những người xây dựng mục tiêu phát triển của quốc gia, ngoài đòn bẩy đầu tư công - mà cốt lõi là các đại công trình giao thông đang triển khai trên khắp cả nước, có lẽ còn xuất phát từ sự năng động của nền kinh tế Việt Nam và khả năng đa dạng hóa thị trường thông qua các hiệp định thương mại tự do đa dạng cả song phương lẫn khu vực. 

Điều này thể hiện qua tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước gần 20% trong năm 2024. Dù vậy, tỉ trọng giá trị xuất khẩu của khối trong nước ở Việt Nam, so với các quốc gia Đông Nam Á khác, là thấp nhất - chỉ khoảng 27% (số liệu từ Tổng cục Hải quan, năm 2024). Để so sánh, Malaysia là 35%, Indonesia 45% và Thái Lan khoảng 50%, theo các cơ quan thống kê của mỗi nước.

Xuất khẩu được từ các công ty nội địa càng nhiều thì càng tốt cho quốc gia vì nó làm giảm bớt phụ thuộc vào FDI. Hơn nữa, tỉ lệ hàm lượng nội địa trong xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI chỉ khoảng 15-30%, tùy theo báo cáo. 

Tức trong giá trị tăng thêm của khoảng 300 tỉ USD xuất khẩu, chỉ vào khoảng 45 tỉ là thực sự do Việt Nam làm ra. Xuất khẩu FDI tăng trưởng ngoạn mục mà tỉ lệ giá trị nội địa đóng góp trong đó không tăng bao nhiêu thì cũng không có ý nghĩa mấy cho tăng trưởng GDP.

Nếu nhìn vào một số thực tế khác, có thể thông cảm cho các con số bảo thủ của các định chế quốc tế. Nếu đầu tư công là động lực đòn bẩy kỳ vọng của Chính phủ thì nó cũng là điểm kém lạc quan nhất của các dự báo quốc tế. 

Tiến độ giải phóng mặt bằng và năng lực quản lý ở địa phương dẫn đến khả năng hấp thu nguồn vốn yếu kém ở cấp này là chuyện đã được nói đi nói lại suốt thời gian dài vừa qua, từ trung ương đến địa phương.

Sự xáo trộn dù là trong ngắn hạn, phụ phẩm tất yếu của việc sắp xếp lại địa giới hành chính, cũng tác động đến công tác giải ngân đầu tư công này, khi hoạt động giải phóng mặt bằng, hoặc cấp phép khai thác đất - cát cho san lấp tất yếu phải chậm lại cùng cuộc cải tổ. 

Điều đáng lo hơn là những lý do không mới, nhưng xuất phát từ điểm nghẽn sâu xa: Sẽ khó có mức tăng trưởng cao và ổn định khi năng suất lao động chưa được cải thiện.

Trong bối cảnh này, năng suất không chỉ được hiểu ở lĩnh vực tư nhân, mà còn là hiệu năng của công, viên chức nhà nước ở các cấp chính quyền mới, nơi mà bây giờ các cấp quản lý mới bắt đầu loay hoay xây dựng và áp dụng KPI. 

Một sự tăng tốc đột ngột từ trên xuống, trong khi các cấp trung gian đang còn ở trạng thái chuyển đổi chưa ổn định, không thể không gây ra các điểm tắc nghẽn mà để giải quyết nó, không chỉ cần hướng dẫn, nghị định, nghị quyết, cũng không thể đốt cháy giai đoạn tính bằng tháng, bằng quý.

Quan ngại cho mục tiêu tăng trưởng 2 con số, do đó, không chỉ phụ thuộc bối cảnh nền kinh tế thế giới phục hồi như thế nào, chính sách thương mại của nước Mỹ ra sao, hay các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô về lãi suất, tỉ giá chính xác, hiệu quả hay không… Nó nằm ở tốc độ của mỗi công đoạn trong bộ máy điều hành kinh tế nữa.■

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận