Thỏa thuận mua bán đất đai

GERALD MURNANE 23/03/2024 07:20 GMT+7

TTCT - Truyện ngắn dưới đây dựa trên một sự kiện lịch sử: Thỏa thuận Batman, tức thỏa thuận mua bán đất đai (đúng ra là đổi đất lấy hàng hóa) vào năm 1835 giữa nhà thám hiểm John Batman và những người thổ dân Australia.

Ảnh: ABC

Ảnh: ABC


Lời người dịch: 

Được giới phê bình coi là một người khổng lồ trong văn chương Australia nói riêng và văn chương Anh ngữ nói chung, đồng thời thường xuyên được đồn đoán nằm trong số những ứng cử viên nặng ký của giải Nobel văn chương, Gerald Murnane không chỉ là một tiểu thuyết gia kiệt xuất mà còn là một nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy. 

Truyện ngắn dưới đây, phảng phất phong vị của Borges, dựa trên một sự kiện lịch sử: Thỏa thuận Batman, tức thỏa thuận mua bán đất đai (đúng ra là đổi đất lấy hàng hóa) vào năm 1835 giữa nhà thám hiểm John Batman và những người thổ dân Australia (chi tiết của thỏa thuận nằm trong câu đề từ của tác phẩm, được trích ra từ nhật ký của Batman). 

Mặc dù thỏa thuận này về sau bị tuyên bố vô hiệu và Batman đã phải chuyển sang vùng đất ngay gần đó để sáng lập ra thành phố Melbourne, nhưng nó vẫn có giá trị lịch sử rất lớn và là đề tài tranh luận ưa thích tốn không biết bao nhiêu giấy mực, với tư cách là thỏa thuận mua bán trên giấy tờ đầu tiên và duy nhất mà một người châu Âu thực hiện với những người thổ dân Australia, thay vì cướp trắng đất đai của họ như trong tất cả các trường hợp khác. Trong truyện ngắn này, sự kiện lịch sử ấy được đánh giá từ góc nhìn của những người thổ dân tham gia thỏa thuận mua bán. 

Tuy nhiên, trái với quan niệm thông thường về tư duy đơn sơ, chất phác, thậm chí có phần ngờ nghệch của những người thổ dân, Murmane, bằng trí tưởng tượng ngoạn mục của mình, đã sáng tạo ra những người thổ dân vô cùng đặc biệt, họ sở hữu khả năng tư duy trừu tượng phi thường vốn chỉ có ở những triết gia. 

Nhờ khả năng tư duy trừu tượng phi thường này, được thể hiện dưới lớp vỏ ngôn ngữ phức tạp, đậm tính triết lý cùng những biện luận sắc sảo xoay quanh cặp phạm trù nổi tiếng trong triết học phương Tây: khả năng và hiện thực, mà một sự kiện thỏa thuận mua bán đất đai thông thường, dưới góc nhìn độc đáo của những người thổ dân này, đã trở thành một luận đề triết học thú vị, đặt ra những vấn đề mang tính phổ quát hơn nhiều về tồn tại và nhận thức, lồng vào trong dáng dấp của một câu chuyện ngụ ngôn đa nghĩa giàu chất thơ.

Sau khi đã giải thích đầy đủ mục đích của mình, tôi mua hai khu đất rộng của họ - khoảng tầm 240.000ha, áng chừng như vậy - và giao cho họ đống mền, dao, gương thủy tinh, rìu, hạt cườm, kéo, bột mì... để đổi lấy hai khu đất ấy, và cũng đồng ý trả cho họ khoản cống nạp, hoặc gọi là tiền thuê đất cũng được, hằng năm.
—JOHN BATMAN, 1835

Vào thời điểm đó, chúng tôi đương nhiên chẳng có lý do gì để mà phàn nàn cả. Những người nước ngoài này đã lịch sự giải thích hết mọi chi tiết trong hợp đồng trước khi chúng tôi ký vào đó. Tất nhiên cũng có những vấn đề nhỏ mà lẽ ra chúng tôi nên hỏi thêm. Nhưng ngay cả những nhà đàm phán giàu kinh nghiệm nhất của chúng tôi cũng bị phân tâm khi thấy những thứ đồ mà họ đề nghị trả cho chúng tôi.

Những người lạ này chắc cho rằng đống hàng hóa của họ hoàn toàn xa lạ với chúng tôi. Họ khoan dung ngắm nhìn chúng tôi thọc tay vào những bao bột mì, đắp thử mấy tấm mền, và thử độ bén của những lưỡi dao lên những cành cây ở ngay gần đó. Và khi họ đi rồi, chúng tôi vẫn còn nghịch đống tài sản mới của mình. Nhưng điều chúng tôi kinh ngạc nhất không phải là tính mới lạ của chúng. Chúng tôi đã nhận ra một sự tương đồng cơ hồ kỳ diệu giữa thép, gương thủy tinh, len, bột mì của những người lạ này với những thứ kim loại, gương soi, quần áo, thức ăn mà chúng tôi vẫn thường mặc định về sự tồn tại của chúng, dự phóng về chúng, hoặc mơ về chúng.

Liệu có đáng ngạc nhiên không khi một dân tộc vốn không biết dùng thứ gì hữu ích hơn là đá để xử lý những cây gỗ cứng đầu cũng như những đám cỏ mềm oặt và những súc thịt dính đầy máu - liệu có đáng ngạc nhiên không khi một dân tộc như thế lại quá quen thuộc với cái ý niệm về kim loại? Mỗi người chúng tôi, trong mơ, đều đã đốn những thân cây cao vút bằng những lưỡi dao cắm ngập vào lớp cùi nhợt nhạt bên trong vỏ cây. Bất kỳ ai trong số chúng tôi cũng có thể đã từng diễn cảnh lùa miếng kim loại đã được mài sắc qua một luống cỏ hoặc đã mô tả việc lọc thật chuẩn lớp mỡ hay bắp thịt bên dưới một con dao nhọn. Chúng tôi vốn đã biết đến sức mạnh và sự sáng bóng của thép cũng như độ chính xác của những lưỡi dao bằng thép vì đã thường xuyên tạo ra sự tồn tại khả thể của nó.

Đối với gương thủy tinh, len và bột mì cũng hệt như vậy. Làm gì có chuyện chúng tôi lại không thể suy luận ra được sự hoàn hảo của gương soi cơ chứ - chúng tôi vốn là những kẻ thường xuyên nhìn vào những vũng nước gợn sóng sau khi làm xao động hình ảnh của chính mình kia mà? Không có loại len nào mà chúng tôi lại không phỏng đoán được một khi đã rúc vào những tấm da thú chưa được thuộc cứng quèo trong những tối mùa đông mưa rét. Và hằng ngày những tiếng giã đầy nặng nhọc của đám đàn bà bên những chiếc cối đá đầy bụi bặm gợi nhớ đến vị đậm đà của thứ bột mì mà chúng tôi chưa bao giờ được nếm.

Nhưng chúng tôi luôn phân biệt rõ ràng giữa khả năng và hiện thực. Hầu như tất cả mọi thứ đều có khả năng xảy ra. Bất kỳ vị thần nào cũng có thể cư ngụ ở đằng sau đám mây giông hay đằng sau thác nước, bất cứ chủng tộc thần tiên nào cũng có thể cư trú ở vùng đất bên dưới mép rìa của đại dương; bất cứ ngày mới nào cũng có thể mang tới cho chúng ta một điều kỳ diệu như là một chiếc rìu thép hay một chiếc mền len. Phạm vi gần như vô tận của khả năng chỉ bị giới hạn bởi sự xảy ra của hiện thực. Và đương nhiên là cái gì đã tồn tại theo nghĩa này thì không bao giờ có thể tồn tại theo nghĩa kia được nữa. Gần như tất cả mọi thứ đều có khả năng xảy ra, đương nhiên ngoại trừ hiện thực.

Người ta có thể hỏi rằng liệu lịch sử cá nhân hay lịch sử tập thể của chúng tôi có cho thấy một ví dụ nào về việc khả năng biến thành hiện thực hay không. Há chẳng lẽ lại không có người đàn ông nào chưa từng mơ đến việc sở hữu một thứ vũ khí hoặc một người đàn bà nào đó và rồi, một ngày hoặc một năm sau đó, có được cái mà mình đã từng ham muốn sao? Điều này có thể trả lời một cách đơn giản bằng sự cam đoan rằng chưa từng nghe thấy một ai trong số chúng tôi tuyên bố rằng thứ mà mình đang sở hữu lại giống, dù chỉ là giống một cách mơ hồ thôi, với cái khả thể mà hắn đã từng hy vọng được sở hữu.

Cảnh nhà thám hiểm John Batman gặp những người thổ dân Australia trước khi ký thỏa thuận mua bán đất đai. Tranh sơn dầu trên toan của John Wesley Burtt, khoảng năm 1875.  Nguồn: Bảo tàng Victoria (Úc)

Cảnh nhà thám hiểm John Batman gặp những người thổ dân Australia trước khi ký thỏa thuận mua bán đất đai. Tranh sơn dầu trên toan của John Wesley Burtt, khoảng năm 1875. Nguồn: Bảo tàng Victoria (Úc)

Cũng trong buổi tối hôm đó, đắp trên lưng những tấm mền ấm áp và đặt những lưỡi dao vẫn còn sáng loáng bên mình, chúng tôi buộc phải đối đầu với một mệnh đề khó chịu. Đống hàng hóa này, đột ngột xuất hiện giữa chúng tôi, vốn chỉ thuộc về một thế giới khả thể. Vì thế chúng tôi đang mơ. Giấc mơ này có thể là giấc mơ sống động nhất và kéo dài lâu nhất mà bất kỳ ai trong số chúng tôi từng biết. Nhưng cho dù nó có kéo dài bao lâu đi chăng nữa thì nó vẫn chỉ là một giấc mơ mà thôi.

Chúng tôi ngưỡng mộ sự tinh tế của giấc mơ. Người đang mơ (hay những người đang mơ - chúng tôi thừa nhận khả năng chịu trách nhiệm tập thể của mình) đã sáng tạo ra một chủng tộc những con người mà trong đó những đồ vật khả thể được coi là có thật. Và những người này đã được xui khiến đề nghị cho chúng tôi được sở hữu những ước vọng của họ để đổi lấy một thứ mà tự thân nó vốn không có thật.

Chúng tôi tìm thêm được bằng chứng để chứng minh cho lời giải thích này. Vẻ xanh xao của những người mà chúng tôi gặp hôm đó, sự thiếu vắng mục đích trong phần lớn những hành vi của họ, sự mơ hồ trong những lời giải thích của họ - tất cả những điều này rất có thể là khiếm khuyết của những kẻ đang được người khác mơ về trong lúc vội vã. Và có lẽ nghịch lý thay, tính chất gần như hoàn hảo của những thứ đồ được họ đề nghị đổi cho chúng tôi dường như là sản phẩm của một người đang mơ, kẻ đã vung vãi tất cả những phẩm chất đáng ao ước này vào những món đồ chính trong giấc mơ của mình, những phẩm chất vốn không bao giờ được tìm thấy ở những đồ vật có thật cả.

Chính điểm này đã khiến chúng tôi phải thay đổi một phần lời giải thích của mình cho những sự kiện của ngày hôm đó. Chúng tôi vẫn đồng ý rằng những gì đã xảy ra là một phần của giấc mơ nào đó. Thế nhưng đặc tính của hầu hết các giấc mơ nằm ở chỗ bản chất của chúng vào thời điểm đó dường như là có thật đối với người đang mơ. Nếu chúng tôi đang mơ về những người lạ và hàng hóa của họ thì làm sao chúng tôi có thể đưa ra lý lẽ bác bỏ việc coi những người này và những đồ vật của họ là có thật đây?

Chúng tôi quyết định rằng chẳng ai trong số chúng tôi là người đang mơ hết. Vậy thì ai là người đang mơ đây? Có lẽ là một trong các vị thần của chúng tôi chăng? Nhưng không có thần thánh nào lại quen với hiện thực đến mức ngài ấy thành công trong việc tạo ra một ảo tưởng về nó, mà cái ảo tưởng ấy suýt nữa thì đánh lừa được chúng tôi.

Vậy thì chỉ có lời giải thích hợp lý duy nhất. Những người lạ với nước da nhợt nhạt kia, những người mà chúng tôi lần đầu tiên nhìn thấy vào ngày hôm đó, đang mơ về chúng tôi và sự bối rối của chúng tôi. Hay nói đúng hơn, những người lạ có thực kia đang mơ về một cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và chính cái bản thể đang được mơ của họ.

Ngay lập tức, một số vấn đề nan giải dường như đã được giải quyết. Những người lạ kia đã không quan sát chúng tôi giống như con người quan sát nhau. Có những thời khắc khi họ dường như đã lướt qua những đường nét mơ hồ của chúng tôi để nhìn tới những cảnh tượng mà họ nhận ra một cách dễ dàng hơn. Họ nói chuyện với chúng tôi cao giọng một cách kỳ lạ và thu hút sự chú ý của chúng tôi bằng những cử chỉ cường điệu cứ như thể chúng tôi ở cách xa họ một khoảng cách đáng kể, hay cứ như thể họ sợ chúng tôi có thể mờ dần rồi biến mất hoàn toàn ngay trước mắt họ trước khi chúng tôi kịp đáp ứng được cái mục đích mà vì nó họ đã cho phép chúng tôi chui vào trong giấc mơ của họ.

Giấc mơ này đã bắt đầu từ khi nào? Chúng tôi hy vọng nó mới chỉ bắt đầu vào chính cái ngày hôm đó, khi chúng tôi lần đầu tiên gặp những người lạ này. Nhưng chúng tôi cũng không thể bác bỏ được cái điều rằng toàn bộ cuộc đời và toàn bộ lịch sử của chúng tôi có thể đã được mơ bởi những con người này, những kẻ mà chúng tôi hầu như chẳng biết gì về họ cả. Điều này không hoàn toàn làm chúng tôi mất tinh thần. Với tư cách là những nhân vật trong mơ, chúng tôi có thể có ít tự do hơn rất nhiều so với chúng tôi vẫn hằng tưởng. Nhưng đương nhiên các tác giả của giấc mơ chứa đựng chúng tôi này ít nhất cũng ban cho chúng tôi sự tự do để nhận thức ra, sau ngần ấy năm, cái sự thật đơn giản đằng sau thứ mà chúng tôi cho là một thế giới phức tạp.

Tại sao mọi sự lại xảy ra như vậy cơ chứ? Chúng tôi chỉ có thể giả định rằng những người kia đã mơ với cùng một mục đích mà chúng tôi (những giấc mơ bên trong một giấc mơ) thường đắm mình vào trong giấc mơ. Họ muốn có một thời gian ngắn ngủi để tưởng nhầm khả năng là hiện thực. Vào thời khắc đó, khi chúng tôi đang suy ngẫm dưới những vì sao quen thuộc (vốn đã hơi khác đi một chút khi giờ đây chúng tôi đã biết được nguồn gốc thực sự của chúng) thì những người đàn ông đang mơ kia lại đang ở một vùng đất có thực nằm cách đó rất xa, sắp xếp chính những suy ngẫm của chúng tôi để cho chính cái bản thể đang được mơ của họ có thể tận hưởng, trong chốc lát, cái ảo tưởng rằng họ đã giành được một cái gì đó có thực.

Và cái mục đích phi thực trong những giấc mơ của họ là gì? Văn bản mà chúng tôi ký vào đã giải thích tất cả. Nếu như chiều hôm ấy chúng tôi không bị phân tâm bởi đám gương thủy tinh và thép của họ, hẳn khi đó chúng tôi đã nhận ra được sự phi lý của những sự kiện ngày hôm đó. Những người lạ ấy muốn sở hữu đất đai.

Đương nhiên, quả là điên rồ nhất hạng khi cho rằng đất đai, vốn theo định nghĩa là không chia cắt được, lại có thể được đo đạc hoặc phân chia bằng một thỏa thuận thuần túy giữa con người với nhau. Dù sao đi chăng nữa, chúng tôi khá chắc chắn rằng những người nước ngoài ấy đã không hiểu được mảnh đất của chúng tôi. Từ sự lúng túng và bứt rứt của họ khi đứng trên mảnh đất này, chúng tôi cho rằng họ đã không nhận biết được nguồn sinh sống mà nó mang lại, mà cũng chẳng nhận biết được sự kính trọng mà nó đòi hỏi. Khi di chuyển dù chỉ một đoạn ngắn trên mảnh đất này, họ đã bỏ qua những nơi chốn mời gọi người ta đi qua và đặt chân lên những nơi chốn rõ ràng là không được phép xâm phạm, thì chúng tôi biết rằng họ sẽ lạc lối trước khi tìm ra được vùng đất thực sự.

Tuy nhiên, họ đã nhìn thấy một vùng đất nào đó. Vùng đất đó, theo như lời của chính họ, là nơi để làm trang trại và thậm chí có lẽ còn để lập ra một ngôi làng. Sẽ là phù hợp hơn với phạm vi của giấc mơ bao quanh họ nếu như họ nói về việc lập ra một thành phố chưa bao giờ được nghe tới ở ngay chính nơi mà họ đang đứng. Nhưng theo quan điểm của chúng tôi thì tất cả các kế hoạch của họ đều giống nhau cả thôi. Làng mạc và thành phố, tất cả đều nằm trong địa hạt của khả năng và có thể không bao giờ có được một sự tồn tại thực sự. Vùng đất sẽ vẫn chỉ là vùng đất, được dành cho chúng tôi nhưng đồng thời cũng cung cấp cảnh tượng cho những giấc mơ của một dân tộc vốn sẽ không bao giờ có thể hiểu được vùng đất của chúng tôi cũng như bất kỳ vùng đất nào mà họ mơ tới.

Chúng tôi có thể làm gì đây khi biết được những gì mà chúng tôi đã biết? Chúng tôi dường như bất lực giống như những nhân vật mà chúng tôi nhớ lại được từ các giấc mơ riêng tư, những kẻ cố gắng chạy bằng đôi chân bất lực một cách kỳ lạ. Nhưng nếu không có lựa chọn nào khác ngoài việc hoàn thành những sự kiện trong giấc mơ này thì chúng tôi vẫn có thể ngưỡng mộ tính sáng tạo kỳ diệu của nó. Và chúng tôi có thể không ngừng tự hỏi mãi rằng họ là loại người nào trên đất nước xa xôi của họ, mơ về một vùng đất khả thể mà họ không bao giờ có thể sinh sống được trên đó, mơ xa hơn nữa về một dân tộc như dân tộc chúng tôi với một điểm yếu cố hữu, và rồi mơ lấy được từ chúng tôi mảnh đất vốn dĩ có thể chẳng bao giờ tồn tại cả.

Dĩ nhiên, chúng tôi quyết định tuân thủ giao dịch vốn đã được thu xếp hết sức gọn gàng này. Và mặc dù biết rằng có thể không bao giờ thực sự thức dậy từ một giấc mơ vốn dĩ không thuộc về mình, nhưng chúng tôi vẫn tin tưởng rằng một ngày kia chúng tôi dường như có thể thức giấc, ít nhất là đối với bản thân chúng tôi.

Một vài người trong chúng tôi, vốn nhớ đến chuyện sau những giấc mơ mất mát họ thức dậy với đôi mắt thực sự hoen đầy lệ, đã hy vọng rằng bằng cách nào đó chúng tôi sẽ thức giấc để đoan chắc vào tính xác thực của thứ thép mà chúng tôi đang cầm trên tay và thứ len mà chúng tôi đang quấn quanh vai. Những người khác thì khăng khăng cho rằng chừng nào mà chúng tôi còn cầm nắm vào những thứ như thế này thì chừng đó chúng tôi vẫn không là gì khác hơn ngoài những nhân vật trong giấc mơ rộng lớn vốn bao trùm lên tất cả chúng tôi - giấc mơ ấy sẽ chẳng bao giờ kết thúc cho đến khi một tộc người trên vùng đất mà chúng tôi không biết đến, hiểu được rằng phần lớn lịch sử của họ cũng chỉ là một giấc mơ mà một ngày kia nó sẽ phải kết thúc. ■

Nguyễn Nguyên Phước (dịch)


Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận