Tiết kiệm năng lượng - hiểu đúng để làm đúng

TTCT - Nói đến tiết kiệm năng lượng (TKNL), suy nghĩ phổ biến hiện nay là về TKNL trong nhà máy công nghiệp. Điều này xuất phát từ thực tế ngành công nghiệp đang tiêu thụ 47% năng lượng của Việt Nam. Hậu quả là nhiều địa phương cho rằng tại địa phương không có nhà máy nên không có gì để TKNL.

Vào những năm cuối thập niên 1990, sử dụng hiệu quả năng lượng được khởi đầu một cách quy mô ở Việt Nam với cụm từ TKNL. Cụm từ này đôi khi bị hiểu sai và chưa nói hết được ý nghĩa của quan điểm sử dụng hiệu quả và bảo tồn năng lượng mà thế giới quan tâm.

Trong thực tế, tiềm năng TKNL của tất cả các lĩnh vực đều rất cao, từ 10-50% (Việt Nam cần từ 5-9 tỉ USD/năm để đáp ứng nhu cầu gia tăng năng lượng hằng năm khoảng 14-15%). Các đối tượng sử dụng năng lượng chính của Việt Nam là công nghiệp, giao thông vận tải, hộ gia đình và tòa nhà.

Tại rất nhiều địa phương, tiêu thụ điện của các hộ gia đình chiếm đến 60-70% tổng lượng điện tiêu thụ. Ở TP.HCM, những năm gần đây, nhu cầu điện cho khối tòa nhà và hạ tầng tăng nhanh hơn khối công nghiệp, vì mỗi năm thành phố xây dựng mới khoảng 3,5 triệu m2 (cả nước là trên 9 triệu m2). Ngay tuyến metro Bến Thành - Suối Tiên cũng cần lượng điện có công suất 140 MW, bằng một nửa công suất nhà máy thủy điện Trị An.

Xác lập đúng đối tượng triển khai TKNL thì sẽ có chính sách, kế hoạch và giải pháp TKNL phù hợp. Các nước khác đã thực hiện tốt điều này từ lâu. Chẳng hạn, Singapore ưu tiên giải quyết TKNL cho khối tòa nhà, Mỹ ưu tiên giải quyết TKNL bằng chính sách định mức năng lượng cho ôtô, Trung Quốc đưa ra chương trình mua sắm công sản theo hướng thiết bị hiệu suất cao, hay Nhật triển khai chương trình Top Runner nhằm thúc đẩy ngành ôtô và thiết bị điện công nghiệp giảm dần mức tiêu hao năng lượng...

Với phạm vi sử dụng năng lượng rộng như vậy, tất yếu phải giải quyết một hệ thống vấn đề từ chính sách, tài chính, công nghệ đến nguồn nhân lực, tiêu chuẩn, hệ thống kiểm định và quản lý...

Và để TKNL thật sự đem lại hiệu quả, nhất thiết phải có song song hai chính sách: khuyến khích và chế tài. Người Nhật có 40 năm kiên trì làm TKNL và đã biến thách thức thành cơ hội khi đi tiên phong trong việc tạo ra công nghệ hiệu suất cao, TKNL để dẫn dắt thị trường. Tư duy này nhìn hoạt động TKNL tích cực hơn là cách suy nghĩ TKNL cần phải bỏ kinh phí hỗ trợ (thực chất, việc bỏ chi phí hỗ trợ cũng có ý nghĩa tích cực: cộng đồng giảm được năng lượng thì nhà nước giảm chi phí đầu tư hạ tầng cung cấp năng lượng và chi phí khắc phục môi trường, điều trị bệnh tật).

TKNL liên quan nhiều ngành, có thể tiếp cận dưới góc độ quản lý, kinh doanh cũng như sản xuất, tiêu dùng. Vì vậy, cũng cần có sự tham gia của nhiều đơn vị như quản lý, tư vấn, đào tạo hay chuyển giao công nghệ và dịch vụ tài chính...

Tuy nhiên, hiện có sự lệch lạc trong hệ thống các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực TKNL. Nhiều trường, viện, trung tâm, công ty có thế mạnh về đào tạo, chuyển giao công nghệ nhưng chưa phát huy ưu thế này để tham gia thị trường TKNL mà lại chuyển sang làm các dịch vụ như tư vấn kiểm toán năng lượng. Có quá nhiều đơn vị lao vào mảng dịch vụ trong lĩnh vực công nghiệp mà chưa quan tâm đến các lĩnh vực rất lớn khác như TKNL trong giao thông, vận tải, nông nghiệp hay hạ tầng...

Hiện tượng này làm hoạt động triển khai TKNL vừa yếu lại vừa thiếu, tính hệ thống của vấn đề cần giải quyết bị giới hạn và chậm trễ. Hệ quả là một số lĩnh vực có quá nhiều nhà tư vấn tham gia nên cảm nhận thị trường hẹp, không mặn mà đầu tư, trong khi nhiều lĩnh vực cần sự tư vấn và đầu tư lại thiếu sự tham gia của các nhà đầu tư, tư vấn, đào tạo...

Để TKNL có thể đóng góp tốt cho phát triển chung, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề. Nhà nước cần sớm ban hành các chính sách về TKNL, các quy chuẩn ngành trong các lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, thiết bị điện, các hệ thống tiêu chuẩn hiệu suất và phòng kiểm định để triển khai chương trình tem năng lượng. Nhà nước cũng cần chuẩn bị nguồn tài chính phục vụ các chính sách khuyến khích đầu tư, cải tạo, sản xuất, tiêu dùng công nghệ hiệu quả năng lượng, đào tạo nguồn lực cán bộ quản lý năng lượng... Nguồn tài chính này có thể khai thác từ các chương trình quốc tế. Ngoài ra, nhất thiết phải xây dựng thể chế và năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Để thúc đẩy hình thành và phát triển hệ thống thị trường TKNL với sự tham gia rộng rãi của các nhà đầu tư, doanh nghiệp, nhà tư vấn, nhà sản xuất dưới nhiều góc độ (đào tạo, tư vấn, tài chính, công nghệ, luật, môi trường), việc hình thành các công ty dịch vụ năng lượng là một giải pháp phù hợp điều kiện Việt Nam. Trung Quốc hiện có 600 công ty kiểu này, liên kết ba nhà: tài chính - tư vấn, công nghệ và kinh doanh, theo hình thức bỏ tiền đầu tư giải pháp TKNL trước cho doanh nghiệp và nhận lại tiền từ kết quả TKNL đạt được.

Để TKNL thật sự đóng góp tốt cho phát triển kinh tế, xã hội, môi trường, cần sớm đầu tư thực hiện một khối lượng công việc rất lớn từ chính sách, nguồn lực đến thể chế. TKNL về bản chất có liên hệ cực kỳ mật thiết đến tài chính, công nghệ, môi trường. Ở góc độ kinh tế, đây sẽ là một thị trường vô cùng lớn, tác động sâu sắc đến nhiều hoạt động. Năng lượng từng đem đến sự thịnh vượng cũng như gây sụp đổ kinh tế... ở không ít quốc gia, xứng đáng được xem xét như một ngành kinh tế. Do vậy, cần có một tầm nhìn, một hệ thống cho ngành kinh tế này với sự tham gia của nhiều thành phần.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận