Trăng vuông

TRUYỆN NGẮN CỦA TIÊU ĐÌNH 04/06/2008 18:06 GMT+7

TTCT - Mộ em Lành nằm trên mô đất lưa thưa hoa mắc cỡ, chân đạp về hướng đông. Hồi còn sống, cha định xây hình chữ nhật. Sau nghe tôi bàn riết, cha xuôi lòng xây mộ hình tròn, không gấp khúc góc cạnh nữa. “Vậy là chẳng sợ mưa dập gió vùi. Lâu lâu về nhổ cỏ, thắp hương là đủ” - cha có vẻ như vừa trút được gánh nặng đau đáu cả đời.

Phóng to
Minh họa: Nguyễn Ngọc Thuần

Em nằm lại đó một mình với đất màu và những hàng cây phờ phạc gió Lào, trong khi gia đình tôi đều đã ra Hà Nội. Tôi ra trước từ hồi còn học lớp chín nhờ sự bảo trợ của chú. Cha tôi tính ở lại sẽ không chịu nổi với bom đạn, còn đưa cả gia đình ra cùng lúc thì lấy gì ăn để sống. Ngày tôi đi, gió Lào vẫn thổi rát rạt, rừng cây rốc rỗng như không còn đủ sức chịu đựng được nữa. Pháo giặc đêm ngày bắn vào từ ngoài hạm đội cũng dày hơn. Em Lành tiễn tôi lên đến miệng hầm - nơi tiếp giáp giữa đất tối om với trời bao la sáng trong. Anh em chỉ yên lặng nhìn nhau, tay vẫy vẫy, lòng buồn buồn.

Theo cha một đoạn giao thông hào có những hầm móc cách nhau rất đều, nước mắt tôi mới bắt đầu chảy dài. Hồi còn khỏe, cha tôi thường giành quyền được về thăm em vào các dịp giỗ chạp. Cha đi thì tôi phải ở lại để chăm sóc mẹ đang yếu, ăn nằm một chỗ. Về sau mẹ mất, đến lượt cha già yếu, tôi lại phải bận rộn với quá nhiều việc gia đình, cơ quan nên cũng ít khi về thăm em.

Trời chiều đứng gió, mùi hương trầm lãng đãng như thể hồn em Lành chưa chịu về với núi rừng, sông biển. Lâu lắm mới được gặp nhau, đúng không em? Không như hồi bị cha nhốt dưới địa đạo gia đình bịt bùng bóng tối. Chẳng biết chạy chơi đâu, anh em mình cứ quấn quýt bên nhau như hình với bóng để chuyện trò về cuộc phiêu lưu của dế Mèn.

Lúc ấy, anh đã thấy em giống chú dế Mèn không chịu giam mình nơi hang tối nên cứ đòi lên, lên cho được trên mặt đất. Tức, cha quát:

- Lên trên đó làm gì?

- Để con chạy qua nhà cậu chơi chút rồi về.

- Bom đạn đầy trời trên đó tề...

Cha bỏ lửng câu nói rồi luồn theo một ngách khác sang ngăn nhà bếp. Cũng có nghĩa cha đã phán quyết rạch ròi: “Không được đi đâu cả”.

Nhà cậu ở đối diện nhà tôi, chỉ cách chừng năm mươi mét. Hồi chưa có cái tên “chiến tranh phá hoại”, em Lành thường chạy sang bên đó chơi với bé Ly, con của cậu. Đến giờ ăn cơm, nghe gọi nó vừa dụi mắt vừa chạy ngược hướng gió, thân hình tong teo như muốn bay ngược lại.

- Thôi mà, ở dưới này chơi ô với anh đi - tôi dỗ em Lành.

- Sao anh lên được, em lại không lên được?

Ừ nhỉ, tại sao cha chỉ nhắc tôi phải cẩn thận mà không cấm tôi ra khỏi hầm.

- Anh khác.

- Khác sao?

- Thì anh đã lớn, lại còn phải đi học.

Đến đây em Lành tạm ngưng thắc mắc. Nói chuyện đi học, nó chịu thua. Bởi nó chỉ mới học a, b... tạm ở nhà đội sản xuất. Từ ngày bom đạn rộ lên, làng xóm ngoằn ngoèo những địa đạo đất đỏ, nhà nhà bị đẩy từ trên mặt đất xuống dưới hầm sâu. Lớp học của em không ai giải tán cũng trở thành trống hơ trống hoác. Giữa lờ mờ, nhợt nhạt không đủ sáng, tôi dạy em học tiếp chữ c, d... Chữ được chữ mất, bữa có bữa không.

- Anh Trọng xin cha cho em lên chút đi. Lên một lần rồi em ở mãi dưới này cũng được.

Tôi đành lòng phải hứa với em Lành:

- Được rồi, anh sẽ xin.

Không ngờ cha vẫn một mực khư khư:

- Không được!

- Thì chỉ khi vắng máy bay, đạn pháo, cha cho em lên một chút thôi!

- Biết lúc nào vắng, lúc nào không. Mày thấy đó, mới nghe cạch một cái ngoài biển, trong này đã nổ đoành. Em con còn khờ lắm...

Năm ngoái thằng Hoành lớp tôi chết, thịt xương bay mắc trên cành tre cũng chỉ vì chủ quan, không kịp nhảy vào hầm ếch. Khoảng cách giữa bình yên và cái chết chỉ cách nhau một tiếng nổ đùng. Mẹ nó vừa trông thấy nó chạy lúp xúp ngoài bờ lúa, chớp mắt thi thể đã tan tành. Khi người ta tìm gom được một ít xương thịt của thằng Hoành mang về thì bà đã ngất xỉu từ lúc nào rồi.

Thấy tôi buồn buồn, cha động viên:

- Khi nào có con ở nhà, có thể đưa em sang ngăn bếp chơi cho đỡ ngộp. Còn bình thường phải tập cho em quen đi. Súng đạn còn dài ngày lắm...

Dài ngày là bao nhiêu nữa? Đã gần một tháng trời không ngớt đạn bom, em Lành bị nhốt dưới đáy địa đạo không biết trời trăng mây gió. Nằm đất, ngủ nghỉ, ăn chơi với bóng tối, da thịt em nhão ra như người đang bệnh.

Tối hôm đó, trong khoảng lặng yên hiếm hoi giữa những đợt pháo bầy, tôi đưa em lên ngăn bếp. Ở đây là nơi để ăn uống tạm của gia đình, có thể nhìn thấy ánh sáng Mặt trời, Mặt trăng qua miệng hầm vuông vức. Đêm nhiều trăng. Hình như là trăng đang ở độ tròn đầy nhất. Ánh trăng óng màu mật ong lọt qua đường hầm nhỏ xíu, huyền ảo như trong truyện thần tiên. Em Lành kêu lên: “Ôi đẹp quá!”. Vừa nói em vừa vung đôi cánh tay khẳng khiu như chú chim tập chuyền đang muốn bay.

Nhớ lời cha, tôi kéo tay em:

- Thôi, xuống đi, pháo đấy!

Em Lành như không nghe lời tôi nói:

- Đố anh trăng hình chi?

- Thì trăng tròn chứ hình chi.

- Không, hình vuông.

Tôi thầm cười, nhớ lại bài hình học đầu đời đã dạy cho em ngay trong căn hầm chữ A, bên ánh đèn leo lét không đủ soi rõ những đường vẽ trực quan trên đất.

- Anh ngó nè, một cạnh, hai cạnh... một góc, hai góc...

Nhìn theo ngón tay chỉ của em, tôi thấy một khoảnh trời đầy trăng không tròn trịa mà gấp gãy, góc cạnh. Đó là vừng trăng riêng của em tôi sao?

Ầm ầm... xéo... ầm, xéo... ầm... ầm...

Tiếng đạn pháo gầm réo, tiếng kẻng báo động rồi tiếng máy bay khi gần khi xa đang cày nát vầng trăng vuông vức của em Lành.

- Thằng Trọng đâu, đưa em xuống! Nhanh lên! - tiếng cha tôi thốc tháo nỗi lo.

Tôi kéo em Lành như đang rơi tụt vào lòng đất. Cha nói như chẳng có chuyện gì vừa xảy ra:

- Đã dặn rồi, đừng có ở lâu trên đó.

Cuộc sống cứ chảy theo quán tính thời chiến: cái bình thường trong cái bất bình thường. Trên kia bom đạn vẫn nổ, trăng vẫn sáng, mây trắng tha hồ bay. Dưới hầm gia đình tôi vẫn co cụm giữa mập mờ ánh đèn, không vui, chẳng buồn. Lắng nghe bom đạn chán, lại nói, lại cười. Em Lành hình như vẫn đang còn nuối tiếc khoảng trời hình vuông đầy trăng. Lát sau đạn pháo chưa dứt, cha đã giục: “Thôi, tắt đèn đi, còn phải để dành dầu”. Căn hầm lại tối om như nhiều ngày đêm từng tối om.

Tôi mở mắt nhìn trân bóng tối. Chưa có đêm nào khó ngủ như đêm ấy. Giá mà được nằm sát cạnh em, không cách thân hình to bè của cha, chắc tôi sẽ sờ xem mắt em đang nhắm hay mở. Người chết nằm dưới mồ chắc sẽ giống như thế này? Khác chăng là họ chẳng biết gì nữa nên không đòi lên xem trời đất như em.

Nghe như có con giun, con dế đang lọ mọ bò dưới lưng, tôi cố xua đuổi suy nghĩ lên mặt đất. Ở đó tôi nhớ chuyện tôi đang đi dưới giao thông hào bỗng dưng lại ném sách vở, nhảy lên mặt đất múa may, hét vang. Lũ bạn không hiểu chuyện gì cứ tròn xoe mắt nhìn rồi tái mặt kêu lên: “Thằng Trọng... điên! Coi chừng bom sém mất đầu”. Chỉ có tôi mới biết lúc ấy mình sung sướng mức nào, mặc dầu chỉ tích tắc sau lại phải nhảy xuống giao thông hào...

Ở Hà Nội, chuyện quê, chuyện về em Lành chỉ nhớ nhớ, quên quên. Về đây, được ngồi bên em giữa chiều quê bình yên, mọi thứ đều trở nên đầy đủ, rõ ràng đến lạ lùng. Giữa đám cây xanh, nhà mới chen chúc, dấu vết địa đạo vẫn ngoằn ngoèo rạch đỏ ký ức, cái miệng hầm chữ A dè dặt mở như một hang thần độ lượng... Rồi những đám tang vội vàng, nối tiếp diễn ra từng ngày khiến nỗi ám ảnh về cái chết cũng chai lì dần... Ngày còn sống cha vẫn kể như một điệp khúc: “Thì hôm đó tao phải ra tận xóm đông để chôn cất thím Tư. Làng xóm còn lại mấy người đâu. Còn mẹ mày phải loay hoay lo cơm nước bên ngăn bếp, đâu biết em con đã lẻn ra khỏi hầm chạy sang nhà cậu. Tội nghiệp, nó đang gọi Ly ơi, Ly hỡi thì... bom nổ...”.

Vậy là anh còn nợ em, mãi nợ em... một cái gì đó lớn lắm, phải không Lành?

Trăng non đã nhô lên khỏi biển. Trăng như quả chuối, như chiếc thuyền giấy em hay xếp. Rồi nó sẽ tròn như quả bóng, như cái mâm con. Không có vầng trăng vuông, gấp gãy, góc cạnh như của em.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận