TTCT - Lịch sử hội họa Trung Hoa phải mất hơn hai ngàn năm mới thoát khỏi tình trạng vẽ để cúng. Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, vẽ để cúng thần linh khuất mặt. Lịch sử hội họa Trung Hoa phải mất hơn hai ngàn năm mới thoát khỏi tình trạng vẽ để cúng. Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, vẽ để cúng thần linh khuất mặt. Thời Tần - Hán đến Ngụy - Tấn - Nam Bắc triều, vẽ để cúng (cung phụng) cho vua chúa hay cúng Phật cúng Lão. Những bộ sưu tập cung đình có một đời sống riêng, trải qua lộ trình gom góp tinh anh thư pháp hội họa cất vào một nơi, rồi sụp đổ triều đại, binh lửa thiêu đốt, tẩu tán chìm tàu, triều đại mới lại góp nhặt tàn sót, thu gom tân phẩm, tích chứa ở Bắc Kinh, Nam Kinh…“Xuân vân hiểu ái đồ”, Cao Khắc Cung (1248-1310), người Hồi Hộc (Duy Ngô Nhĩ), quan đến Hình bộ Thượng thư, hiện “Xuân vân hiểu ái đồ” (高克恭春雲曉靄圖) đang thuộc Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh, trên tranh ghi là vẽ năm Canh tý (1360), kích thước 139,5x 58 cm, dấu hoàng gia sớm nhất thấy đời Gia Khánh, tức là sau vụ bán 2 tranh nhái (1824) thì có lẽ bức tranh gốc nhập cungNăm 1900, liên quân tám nước tiện tay hốt lấy một mớ, năm 1911 Phổ Nghi đưa hơn 1.200 cuộn thư họa ra quan ngoại, năm 1948 Tưởng Tổng thống điều 3 hạm tàu đưa đa số tinh phẩm qua Đài Loan… lại là một lịch sử khác nữa. Những bộ sưu tập ở dạng "chơi độc quyền" của vua chúa ngày xưa, nay đã trở thành tài sản quốc gia, chúng có số phận và lịch sử riêng, nói vắn tắt là vậy.Chơi tranh, như ngày nay thường hiểu là mua tác phẩm nghệ thuật để thưởng lãm. Khi người có nhu cầu thưởng lãm đông lên dần thì hình thành giới thương nhân chuyên mua bán tranh, những cuộc mua qua bán lại định hình giá cả, từ đó tranh sẽ thêm giá trị tài sản. Một nền mỹ thuật hội họa phát đạt hay không, phải xét trên bình diện xã hội, chơi tranh trong tổng thể những điều kiện liên quan tới việc kích đẩy nền mỹ thuật.Thị trường định giá tác phẩmNhững phân khúc biến loạn của các triều đại trước và trong thời Đường khiến một số nhà quý tộc đưa tranh bán ra chợ. Trước đó, tranh chỉ lưu hành nội bộ hoàng tộc và các đại thần, thuộc dạng quà tặng cao cấp của vua ban.Người đáng được gọi là nhà sưu tập tư nhân, nhà phê bình, giám tuyển tranh thị trường đầu tiên có lẽ là Trương Ngạn Viễn (815-?), người mà lịch sử hội họa nêu tên người đầu tiên viết họa sử tường tận, với công trình Lịch đại danh họa ký (Những họa gia và những bức tranh nổi tiếng qua các đời). Vốn dòng dõi quan tể tướng thời Đường Huyền Tông, họ Trương thừa hưởng không ít tranh quý, nhân loạn lạc lại thâu mua tích trữ. Khi xem xét tỉ mỉ cả đống tranh đó, ông mới viết họa sử. Tất nhiên, sách lưu hành cũng có lời gièm nhà họ Trương giữ đồ quốc cấm, nên ông sợ quá phải đem nộp lại một mớ, chợ tranh thời đó có lẽ từng kêu "uổng ghê!".Trương Ngạn Viễn lập danh sách và ghi tiểu sử vắn tắt 372 thư họa gia từ Hán đến năm 841 (Đường, Vũ Tông), phân tác giả và tác phẩm làm 3 thời kỳ (cổ, cận, hiện), và xếp 3 đẳng hạng. Thời giá họ Trương nêu, tác phẩm cổ của nhóm tác giả hàng đầu như Trương Tăng Dao (nhà Lương), Đổng Bá Nhân (nhà Tùy), Trịnh Pháp Sĩ và Triển Tử Kiền (nhà Tùy - Đường), hoặc sơ Đường như Diêm Lập Bản, Ngô Đạo Tử... một bức tranh bình phong mà đẹp và hoàn hảo có giá 2 vạn lượng vàng (*), kém hơn thì giá 1,5 vạn lượng vàng.Tranh Đường Dần (唐寅). Metropolitan Museum of Art, New York, NYNhóm kế tiếp như Dương Khế Đan (nhà Tùy), Điền Tăng Lượng (Bắc Tề), Trịnh Pháp Luân (Đường), Uất Trì Ất Tăng (Đường)… có giá khoảng 1 - 1,5 vạn lượng vàng. Loại tranh của Cố Khải Chi (thời Tam Quốc) hay Lục Thám Vi (Nam Tống) thì vô giá.Lấy chuyện "trăm vạn tiền" thời Tam quốc thì có thể cho rằng giá tranh "2 vạn lượng vàng" thời Đường là có thể, tuy sử liệu đều bán tín bán nghi nhưng nó nghiêng về hướng hé lộ trình thẩm mỹ của dân chúng thời đó đã rất cao, đã hình thành nhu cầu thưởng lãm và sở hữu vật phẩm mà trước giờ chỉ là độc quyền của hoàng gia.Quách Nhược Hư trong Đồ họa kiến văn chí (1070) viết rằng họa gia Chu Phưởng thời Đường vẽ tranh chân dung nổi tiếng, các nhà vương công tranh nhau đặt hàng, tuy không nói giá cả cụ thể một bức nhưng có một tình tiết rằng nhiều người Tân La (đông bán đảo Triều Tiên) bỏ rất nhiều tiền để đặt họ Chu vẽ một số lượng lớn tranh cho họ mang về nước. Ghi chép này cho thấy sự mộ điệu của người Tân La và việc giao dịch họa phẩm bình diện quốc tế thời Đường đã tạo tiền đề cho sự hình thành dòng tranh thủy mặc truyền thống Triều Tiên. Thư sử cũng nói về chuyện "người ngoại bang sang cống", đặc biệt dành nhiều tiền bạc để mua chữ của Liễu Công Quyền. Đó là những cuộc giao dịch xuất khẩu thư họa có thể tìm thấy trong sử sách.Họa gia nổi tiếng thời Tống Mễ Phất (1051-1107) viết cuốn Họa sử, kể chuyện ba nhà sưu tập nổi tiếng đương thời là Dương Bao, Thiệu Bí và Thạch Dương Hưu. Có lần cháu nội họ Thiệu rao bán bức tranh lụa Tản mục đồ (Kẻ chăn trâu nhàn tản) của Hàn Hoảng (723-787) với giá 400.000 quan, sau bị phát hiện tranh chép, bán tháo được có 50.000.Ngô Tu (1764-1827) ghi chú trong Thanh Hạ Quán luận họa tuyệt cú (1824) một câu chuyện liên quan đến giá tranh thời Nguyên giao dịch thời Thanh. Chuyện nói thời Càn Long, có người ở Tô Châu mua được bức Xuân vân hiểu ái đồ (Mây xuân mờ sớm) của Phòng Sơn Đạo Nhân (hiệu của Cao Khắc Cung), rồi sao chép ra 2 bức tranh giả, tinh vi đến mức Ngô Tu - một học giả, chuyên gia giám định - lầm là tranh thật. Một bức bán cho người trong vùng là Tất Giản Phi giá 800 lượng vàng, vài hôm sau họ Tất coi kỹ thì mới biết hố hàng. Bức thứ hai đưa đến Giang Tây, bán cho quan đầu tỉnh họ Trần giá 500 lượng vàng, bản gốc còn ở Ngô Môn.Ngô Tu kể đầu đuôi vụ này và cho nhiều thông tin thú vị về trình độ làm tranh giả, về giá cả đương thời, về sự nhộn nhịp của thị trường chơi tranh. Ông không chỉ sành sỏi trong thẩm định mà còn nắm rõ cả kỹ thuật và đường dây mua bán tranh cổ liên vùng: tranh thời Nguyên vào đời Càn Long (cách khoảng 500 năm) giá cỡ một ngàn lượng vàng (thời điểm này 1 lượng vàng=14 lượng bạc), tức thấp hơn so với giá tranh cổ giao dịch cuối thời Đường (trung bình 1,5 vạn lượng vàng).Nhà thơ Dương Huyền ở giao thời Minh - Thanh, trong tình cảnh kinh tế bất ổn, mà thấy ông viết "Hạng phường loạn thế đa thương cổ, Xích bức họa đồ thị thốn kim" (Phố phường thời loạn mà nhiều người mua bán. Bức tranh nhỏ [30cm2] thôi giá cả tấc vàng). Giá trị cao ngất mà lời thơ cho biết đương nhiên nói về tranh cổ. Có thể nghĩ theo hướng thị trường tranh cổ cuối thời Minh không bị ảnh hưởng bởi thời cuộc, chạy bữa ăn là chuyện của giới bình dân, còn mua bán tranh vẫn là chuyện của giới phú hào quyền quý.Tranh Thạch Đào (1641-1717), Sơn thủy, màu trên giấy, 24x28cm. Ảnh chụp từ James Cahill "La Penture Chinoise", Edictions d'Art Albert Skira, Geneve, 1960Triệu Nhữ Trân trong Cổ ngoạn chỉ nam (1942) ghi nhận giá tranh cổ trong thời Dân quốc (khoảng 1930-1940, tức lúc Nhật chiếm đóng, thị trường bất ổn), tranh thời Tống của tác giả có tiếng, lành tốt, giá từ 10.000 - 100.000 nguyên. Tranh thời Nguyên của tứ đại gia (Hoàng Công Vọng, Vương Mông, Nghê Toản, Ngô Trấn), giá từ 3.000 - 10.000 nguyên. Tranh thời Minh từ 3.000 - 5.000 nguyên. Tranh thời Thanh của Tứ Vương (Vương Thời Mẫn, Vương Giám, Vương Huy, Vương Nguyên Kỳ) hay Ngô Lịch, Uẩn Thọ Bình giá từ 1.000 - 2.000 nguyên (thời đoạn 1937-1945, 1 nguyên đổi 1 franc Pháp).Theo Trung Quốc cổ đại thư họa mục lục (**), tranh cổ từ Tống đến Thanh, bức có giá thấp nhất là 7.000 tệ (RMB), cao nhất là hơn 6,8 triệu tệ.Họa gia tự định giá tác phẩm như thế nào?Những câu chuyện mua bán kể trên cho thấy những tác phẩm thư họa cổ xưa từ rất sớm đã mang giá trị hàng hóa cao cấp. Và sử liệu cho thấy đến khoảng thời Minh thì mới có sự tương tác đúng nghĩa giữa thư họa gia với người chơi tranh.Tô Đông Pha (nhà Tống) kể chuyện Văn Đồng ra giá bức tranh trúc đổi 250 xấp lụa (1 xấp lụa khoảng 50 - 100 xích tùy từng vùng, tức khoảng 15-30m). Văn Đồng là bạn họ Tô, tạm coi đây là mẩu sử liệu sớm về việc họa gia tự định giá tranh của mình, tuy nhiên ông Tô kể vụ nhận hàng này không thành, có thể bên đặt tranh nghe xong đã bỏ chạy mất dép.Vài mẩu giai thoại về họa gia Đường Bá Hổ (Minh) cho thấy việc tác giả chủ động bán tranh như một loại hàng hóa, rằng ông đã xếp các tác phẩm của mình thành một tập lớn, trên bìa ghi hai chữ "Lợi thị" (mối lợi thị trường), như đã từng mần mấy câu: "Bất luyện kim đan bất tọa thiền, Bất vi thương cổ bất canh điền. Nhàn lai tả bức thanh sơn mại, Bất sử nhân gian tạo nghiệt tiền" (Không theo Lão cũng chẳng theo Phật, Không làm thương lái chẳng mần ruộng. Nhàn rỗi vẽ bức núi xanh bán, Chẳng để nhân gian vướng tiền xấu).Có thể tạm coi đây là thời điểm các họa gia văn nhân thoát ly quan niệm coi việc nói tới tiền bạc là bất nhã, những hình ảnh lưu truyền về tao nhân mặc khách ngao du sơn thủy tùy hứng vung bút thành tranh rồi đề tặng người tri kỷ đổi lấy bữa nhậu này nọ dần phải xét lại. Văn nhân rồi ai cũng phải xài tiền, cứ vẽ tặng riết rồi lấy gì sống.Trong Dương Châu Bát Quái truyện (NXB Thượng Hải Nhân Dân, 1995) có in một bức thư pháp của Trịnh Bản Kiều (1693-1765), nội dung rất độc đáo. Đó là tờ ghi bảng giá mà họ Trịnh công cáo, toàn văn dịch như sau: "Tranh lớn 6 lượng [bạc], tranh vừa 4 lượng, tranh nhỏ 2 lượng; thư pháp cuộn, câu đối 1 lượng; quạt, tranh vuông nhỏ 5 tiền. Như đưa quà cáp, thực phẩm thì không hay như tiền bạc, bởi quà cáp các vị đưa chưa chắc là thứ tôi thích. Đưa tiền mặt thì trong lòng vui vẻ, chữ và tranh đều đẹp. Còn lễ vật chỉ thêm phiền phức, rồi như lấy tranh mà thiếu lại càng dễ quên. Tuổi già sức yếu, cũng không thể tiếp các vị nói chuyện nhảm. Họa trúc đa ư mãi trúc tiền, Chỉ cao lục xích giá tam thiên. Nhậm cừ thoại cựu luận giao tiếp, Chỉ đương thu phong quá nhĩ biên. Càn Long kỷ mão (1759). Chuyết Công hòa thượng chúc thư tạ khách. Bản Kiều Trịnh Nhiếp".Bài thơ đề cuối bảng giá có thể hiểu là: Vẽ trúc nhiều thì cũng [đã từng] tốn tiền mua trúc [để trồng để ngắm], [bức vẽ] Giấy cao sáu xích (1,8m) giá ba ngàn [tiền]. Dẫu [người mua tranh] có nhắc chuyện xưa nhằm xởi lởi, Thì chỉ như gió thu thoảng qua bên tai mà thôi. Đương thời, 1 lượng bạc đổi 500 văn tiền, nên giá 3.000 tiền trong lời thơ cũng khớp với giá đã nêu "tranh lớn 6 lượng bạc". Theo thời giá thì mỗi đấu gạo (10 lít) chỉ 6 văn tiền, chi tiêu mắm muối củi lửa trong ngày chỉ 1 văn, nên giá tranh này nhà bình dân hàn sĩ chắc khó chơi nổi.Bức chữ nói trên được truyền tụng rằng tác giả gọi nó là "Bản Kiều nhuận cách" (Bảng giá thù lao của Bản Kiều). Bảng giá này được viết sau khi họ Trịnh rời quan trường, lúc đã 66 tuổi, tài nghệ lão luyện chín muồi, lời lẽ rất thực tế, rõ ràng và thẳng thắn, nhắm đến phân khúc thị trường thuộc giới trung lưu. Được coi là đứng đầu "Dương Châu Bát Quái", việc thông cáo giá tranh của Bản Kiều cũng biểu lộ tính cách quái của ông và cũng là sự quái đương thời, việc ông không nhận quà cáp mà chỉ nhận tiền mặt, với giọng khinh mạn, có thể là sự coi thường của ông đối với thói tuồng thể diện màu mè giả tạo chăng.Thư pháp Trịnh Bản Kiều (鄭板橋), “Bản Kiều nhuận cách”, hình chụp bản rập từ bản khắc đá ở Bảo tàng thành phố Duy Phường (Sơn Đông)Noi theo cách nói thẳng của Bản Kiều, nhiều họa gia nổi danh thời cận đại đến đương đại cũng tự đề ra bảng giá, nhiều nhà sưu tập công bố nội dung hoặc bút tích thuộc dạng này, viết bài đăng báo. Có bức chữ Tề Bạch Thạch đáng lưu ý, nội dung viết: "1 thước vuông 1 vạn nguyên, không phải tính phần tranh [tức tính theo diềm bồi]; tranh xếp 1 thước 1 vạn nguyên; quạt cỡ vừa 1,5 vạn, cỡ lớn 2 vạn; tranh trùng điểu 6 ngàn; tranh màu đỏ, dùng ít màu 2 ngàn, dùng nhiều màu 4 ngàn; khắc dấu, chữ lớn cỡ 3 đến 5 phân mỗi chữ vạn nguyên, chữ nhỏ cỡ 2 phân thêm nửa số tiền, chữ lớn hơn 6 phân thêm nửa số tiền, chỉ khắc 1 dấu chu văn (dương bản) thêm nửa số tiền, [tức] mỗi nguyên thêm 5 giác. Không trả thù lao giới thiệu, tặng lễ vật không tính. Ngày 16 tháng 5 [Dân quốc] năm thứ 35 (1946). Bạch Thạch".Một chút chiêm nghiệmNhững bảng giá thú vị của các họa gia thời trước coi ra lại khá rõ ràng, đọc những văn bản "nhuận cách" ấy, người ta có thể mắc cười vì sự vụn vặt thô thiển của nó, nhưng cũng có thể chau mày suy ngẫm về ý nghĩa của nó. Ở đó, những danh họa gia có lẽ tự nhận thấy được tầm ảnh hưởng của mình đối với xã hội, rồi căn cứ trên tài nghệ thiên phú hay công phu hàm dưỡng để tự định giá trị tác phẩm, hay là sự thể hiện phong cách, cá tính và khí chất riêng. Ở đó có thể là chỉ dấu phản ánh những phong trào, tinh thần của thời đại, khiến người ta hình dung ra một thị trường nghệ thuật nhộn nhịp mà lành mạnh. Trong số người chơi tranh, có thể chỉ một phần nhỏ là yêu thích cái đẹp thật sự, một số đua đòi học vẻ sang, một số đầu tư lâu dài. Nhưng dù với mục đích gì, khi họ chấp nhận giá cả dẫu cao để tìm đến mua về treo cất, đó là điều kiện tất yếu để kích đẩy một nền hội họa phát triển.Hội họa và thư pháp Trung Hoa sở dĩ độc lập ở một góc trời riêng, có cả hệ thống lý thuyết, đủ thành tựu tổng thể và đông đảo nhân tài, là sự dung hợp nhiều góc độ xã hội, với kinh tế đủ mạnh, văn hóa đủ nhuần, ý thức thẩm mỹ đủ phổ quát. Như thế mới nuôi dưỡng được một nền mỹ thuật thịnh đạt qua hàng ngàn năm và trở nên đặc sắc. Một thương nhân chữ ít ắt không tính chuyện đầu tư mua chữ mua tranh, một phú hào muốn tỏ sang mua tranh của danh gia về bài trí cũng là chuyện tốt đẹp, một ông quan hồi hưu vẽ tranh viết chữ bán ra chợ lấy tiền rất sạch lại càng là điều thú vị.Chuyện chơi tranh, với nhà phú hào thích sưu tập bảo tồn, dù mua tranh cổ từ thương điếm hay mua từ nhà họa gia… đều đang góp dự vào việc gìn giữ di sản nghệ thuật. Vài năm trước, hậu duệ thế tộc họ Ông tặng tranh cổ cực quý cho Bảo tàng Thượng Hải, gồm tranh của Lương Giai (Nam Tống), của Thẩm Chu (Minh), của Vương Nguyên Kỳ (Thanh), đều là họa gia tiêu biểu ở triều đại họ sống. Ba bức tranh nằm trong số được các thế hệ gia tộc xem là vật "truyền gia chi bảo". Những báu vật "ngoài hoàng cung" vô giá này được lưu truyền và đến với công chúng như một lời kể thêm về mặt tích cực của những nhà quý tộc nối đời sành điệu.Với thị trường tranh cổ, lịch sử sơ lược này, cùng mốc tham chiếu là bảng giá giao dịch tranh năm 2000 là thời điểm còn dừng ở thị trường thẩm định thủ công. Nay, với thị trường nghệ thuật có sự can dự của công nghệ, có lẽ không có gì bí ẩn hơn giá giao dịch thực tế của một tác phẩm. (*) Kim nhị vạn: 2 vạn lượng vàng hay 2 vạn tiền. Du Kiếm Hoa chú giải Lịch đại danh họa ký (1964) cho rằng "kim/金" tức "hoàng kim/ 黄金", hiểu là "2 vạn tiền". Đái Kiến Binh trong Trung Quốc hóa tệ văn hóa sử (2011) lại cho rằng "kim" thời Đường là một đơn vị có trị giá khác với "ngân" và "tiền", tỉ giá kim/ngân là 1:5, tức 1 lượng vàng bằng 5 lượng bạc.(**) NXB Nam Phương, 2000. Tài liệu tổng hợp giá tranh cổ từ các sàn đấu giá hải ngoại như Sotheby's, Christies, và của Trung Quốc như Gia Đức, Hàn Hải… từ khoảng năm 1990-2000, với 200 tác giả, 900 bức. Sơ lược giá tranh quý qua các thời, theo Trung Quốc cổ đại thư họa mục lục:- Tranh thời Nam Tống: 2 bức lụa khuyết danh, mỗi bức giá 350.000 tệ.- Thời Tống: tranh Tạ Nguyên, bức "Đào hoa" (màu trên lụa, 26x87cm) giá 5 triệu tệ.- Thời Nguyên: tranh Trương Trung "Phù dung thê điểu đồ" (mực trên giấy, 126x48cm) giá 2,9 triệu tệ. Bức thư pháp của Triệu Mạnh Phủ "Quy khứ lai từ" viết năm 1318 (mực trên giấy, 46x453cm) giá hơn 4,4 triệu tệ (cao nhất trong các bức thư pháp).- Thời Minh: tranh Đường Dần "Nguyệt tuyền đồ" (mực trên giấy, 30x112cm) giá hơn 6,8 triệu tệ (cao nhất trong các tranh). Bộ 4 bức thư pháp Trương Thụy Đồ (mực trên giấy, tổng 300x47cm) giá 500.000 tệ.- Thời Thanh, tranh Ngô Lịch "Nam Cao tùng vân đồ" (mực trên giấy, 134x47cm) vẽ năm 1676 giá 2,5 triệu tệ. Tranh Bát Đại Sơn Nhân "Sơn thủy" (mực trên lụa bóng, 186x47cm) giá 3 triệu tệ. Tranh Thạch Đào, 4 bức sơn thủy nhỏ (màu trên giấy, 21x16cm) giá 1,8 triệu tệ. Tranh Trịnh Bản Kiều "Trúc thạch (mực trên giấy, 236x116cm) giá 1,5 triệu tệ; thư pháp Bản Kiều có bức giá 150.000 tệ. Tags: Tranh mỹ thuậtTrung QuốcHội họa trung hoaMỹ thuậtTranh cổ
Thiệt hại khủng khiếp do bão Bualoi: 32 người chết và mất tích, hơn 100.000 nhà dân tốc mái CHÍ TUỆ 29/09/2025 Đến 19h tối 29-9, bão Bualoi và mưa lũ, dông lốc, sạt lở đất đã làm 19 người chết, 13 người mất tích, 82 người bị thương, 8 người mất liên lạc.
Lũ đặc biệt lớn trên sông Hồng, 4 giờ dâng 2,6m CHÍ TUỆ 30/09/2025 Mưa lớn do bão Bualoi (bão số 10) gây ra khiến lũ trên sông Thao (sông Hồng) đoạn qua trạm Yên Bái (tỉnh Lào Cai) đang lên rất nhanh trong đêm, trong vòng 4 giờ đã dâng thêm 2,6m.
Bộ Nội vụ chính thức đề xuất tăng lương tối thiểu 7,2% từ 1-1-2026 HÀ QUÂN 29/09/2025 Bộ Tư pháp đang thẩm định dự thảo của Bộ Nội vụ về đề xuất tăng lương tối thiểu vùng 7,2% từ ngày 1-1-2026.
Những đặc điểm hiếm thấy của bão Bualoi CHÍ TUỆ 29/09/2025 Bão Bualoi (bão số 10) đổ bộ vào bắc Quảng Trị - Hà Tĩnh song lại đi dọc đất liền ven biển nên thời gian lưu bão trên đất liền kéo dài tới trên 12 giờ (duy trì cường độ bão).