Từ chữa thương trên chiến trường đến sơ cứu đời thường

VĨNH ANH 13/09/2025 05:58 GMT+7

TTCT - Nhân Ngày Sơ cứu thế giới (World First Aid Day) 13-9, cùng xem lại ý nghĩa lịch sử của các cột mốc sơ cứu.

a - Ảnh 1.

Từ năm 2000, ngày thứ bảy thứ hai của tháng 9 được chọn là Ngày Sơ cứu thế giới (World First Aid Day, WFAD). Ngoài mục tiêu cao nhận thức về tầm quan trọng của các kỹ năng sơ cứu, ngày này (năm nay là 13-9) cũng là dịp xem lại ý nghĩa lịch sử của các cột mốc sơ cứu.

Những kỹ năng băng bó vết thương đã xuất hiện từ thời kỳ cổ đại. Các ghi chép lịch sử cho thấy người cổ đại đã sử dụng một loại hoắc hương (woundwort) là Stachys sylvatica để làm lành các vết cắt hay trầy xước da. 

Hình ảnh săn sóc vết thương trong cuộc giao đấu của các tráng sĩ xuất hiện trên gốm sứ Hy Lạp từ khoảng năm 500 trước Công nguyên, trong khi những món đồ trong thời đại đồ đồng Trung Đông cũng có cảnh những người nghĩa hiệp, cứu giúp và băng bó xuất hiện.

Từ chữa thương trên chiến trường đến sơ cứu đời thường - Ảnh 2.

Tranh than chì và sáp màu, mô tả cảnh tù binh Đức khiêng những người lính Mỹ bị thương trên cáng tại một trạm sơ cứu trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia Mỹ

Một lược sử sơ cấp cứu

Những người lính bị thương trên chiến trường thường tử vong vì thiếu chăm sóc y tế. Năm 1099, các hiệp sĩ tôn giáo được đào tạo về y tế đã lập ra Hội Thánh John, chuyên điều trị vết thương chiến trận. Nói cách khác, tuy không phải thầy thuốc chuyên nghiệp, họ vẫn được huấn luyện chính thức để thực hiện "sơ cứu".

Năm 1863, Ủy ban quốc tế Cứu trợ thương binh (International Committee for Relief of Wounded in the event of War) được thành lập tại Geneva (Thụy Sĩ). Một năm sau, công ước Geneva quốc tế đầu tiên về cải thiện tình trạng thương binh trong lực lượng vũ trang trên chiến trường được thông qua. 

Trong những năm tiếp theo, các hội Chữ thập đỏ quốc gia lần lượt ra đời khắp châu Âu. Đến năm 1876, Ủy ban quốc tế Cứu trợ thương binh chính thức đổi tên thành Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (ICRC), tên gọi vẫn được duy trì đến nay.

Cũng trong những năm 1870 này, bác sĩ ngoại khoa quân y người Phổ, Johannes Friedrich August von Esmarch (1823-1908), lần đầu sử dụng thuật ngữ erste hilfe (sơ cứu). Ông là một trong những bác sĩ phẫu thuật cấp cứu quan trọng nhất của thế kỷ 19, và là người đặt nền móng cho các tổ chức sơ cứu dân sự.

a - Ảnh 3.

Bác sĩ quân y Esmarch

Theo bách khoa toàn thư Britannica, bác sĩ Esmarch nổi tiếng với những đóng góp cho ngành phẫu thuật quân sự, đặc biệt là việc đưa băng sơ cứu vào sử dụng trên chiến trường. Ông đã viết một cẩm nang về kỹ thuật phẫu thuật quân sự và khởi xướng việc huấn luyện sơ cứu cho cả dân sự lẫn quân nhân. 

Các tài liệu hướng dẫn sơ cứu của ông được đánh giá là xuất sắc nhất thời bấy giờ và được sử dụng rộng rãi. 

Ông được cho là người phổ biến việc sử dụng loại băng tam giác dùng cho gãy tay và là người phát minh ra túi chườm đá. Nẹp cho vùng tay và nẹp cho vùng chân cũng có hình dạng như hiện đại nhờ Esmarch.

Từ chiến trường đến đời thường

Nhiều tài liệu (chẳng hạn bài báo "First-aid at workplace - past, current and future" của X. Priolcar, đăng trên Indian Journal of Occupational and Environmental Medicine tháng 1-2012) đều thống nhất rằng thuật ngữ first aid - kết hợp từ "first treatment" (điều trị ban đầu) và "national aid" (hỗ trợ quốc gia) - xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào năm 1878. Khi đó, tại vùng Aberdeenshire, thiếu tá quân y Peter Shepherd và đại tá Francis Duncan đã khởi xướng ý tưởng dạy kỹ năng sơ cứu cho dân thường.

Shepherd sớm nhận ra giá trị từ các tài liệu giảng dạy của Friedrich von Esmarch và nhanh chóng mở rộng nội dung sơ cứu, không chỉ dành cho những người khiêng cáng trong quân đội mà còn cho các tình huống khẩn cấp ngoài chiến trường. 

Ông biên soạn loạt bài giảng toàn diện mang tên Aids for Cases of Injuries and Sudden Illness (Sơ cứu cho các ca chấn thương và bệnh lý đột ngột), làm giáo trình cho lớp học sơ cứu đầu tiên tại Woolwich, London, do Shepherd cùng bác sĩ dân sự Coleman trực tiếp giảng dạy.

Lớp học diễn ra vào tháng 1-1878 tại trường của nhà thờ Trưởng Lão (Presbyterian Church) ở Woolwich, dựa trên giáo trình do Shepherd soạn. Nội dung sau đó được đăng trên báo địa phương Kentish Independent số ra ngày 2-3 cùng năm. Theo bài viết "The earliest days of first aid" đăng trên BMJ năm 1994, chính tại lớp học này Shepherd lần đầu tiên dùng thuật ngữ first aid.

Đến tháng 10-1878, Shepherd chính thức hệ thống hóa các ghi chú giảng dạy, bao gồm: băng bó chấn thương vùng đầu mặt, xử trí gãy xương, cầm máu qua minh họa trực quan; sơ cứu bỏng, hồi phục người bất tỉnh do đuối nước hay ngạt khí, xử lý các ca say rượu, động kinh, ngất xỉu, đột quỵ. Cuối buổi, người học còn được thực hành đưa nạn nhân đến cơ sở y tế bằng băng ca.

Loạt bài "Sơ cứu cho các ca chấn thương và bệnh lý đột ngột" sau đó nhanh chóng trở thành giáo trình chính thức của Hội cứu thương St John Ambulance (thành lập năm 1877), và được phát triển thành cuốn sổ tay First Aid to the Injured ngay trong năm 1878. 

Theo Museum of the Order of St John, từ ấn phẩm sơ cứu đầu tiên này, đã có hàng chục triệu bản được phát hành cho đến tận thập niên 1950.

a - Ảnh 4.

Một trang trong sách First Aid to the Injured. Ảnh: Museum of the Order of St John

Woolwich có một lịch sử dài hơi về những vụ tai nạn công nghiệp khủng khiếp. Và chỉ vài tháng sau buổi học đầu tiên, các khóa học sơ cứu đã chứng tỏ tầm quan trọng của mình. Tháng 3-1878, một nhà kho đang được 160 công nhân xây dựng tại xưởng đóng tàu Woolwich bị sập, chôn vùi nhiều người. 

Những người bị thương đã nhanh chóng được xe cứu thương của St John Ambulance đưa đến bệnh viện. "Tai nạn này đã minh chứng rõ ràng cho sự cần thiết của việc huấn luyện để có thể hỗ trợ kịp thời trong những tình huống khẩn cấp như vậy" - tờ Daily Telegraph khi đó nhận định.

Đến tháng 9-1878, một thảm kịch lớn khác xảy ra khi tàu du ngoạn Princess Alice chìm trên sông Thames sau một vụ va chạm; nhờ có dân thường đã qua đào tạo, nạn nhân được kéo lên từ mặt nước đã được cấp cứu y tế ngay tại chỗ. 

Mặc dù có tới 600 người thiệt mạng, song người ta tin rằng con số còn có thể cao hơn nhiều nếu không có sự can thiệp này (người trong quân đội và người dân địa phương nhanh chóng sơ cứu khi các nạn nhân được đưa vào bờ).

Trong những năm đầu tiên ở lớp học hướng dẫn sơ cứu, nam và nữ được dạy riêng ở từng lớp học. 7 năm kể từ lớp dạy sơ cứu đầu tiên tạo tiếng vang, các lớp sơ cứu dành cho phụ nữ được tổ chức tại dinh thị trưởng London, dưới sự bảo trợ của phu nhân thị trưởng, nhằm phục vụ những phụ nữ làm việc trong các văn phòng và doanh nghiệp. 

Cuối khóa học, các lớp sơ cứu luôn tổ chức kỳ thi đánh giá năng lực, và người giám khảo chứng nhận năng lực và cấp chứng chỉ khác với người dạy. Nguyên tắc này vẫn được duy trì cho đến ngày nay.

Việc huấn luyện kỹ năng sinh tồn đã trở thành phong trào có sức lan tỏa rộng rãi, từ Anh đến cả thế giới. Trong vòng một thế kỷ kể từ lớp học đầu tiên của Shepherd tại Woolwich, hàng triệu người ở mọi lứa tuổi và mọi tầng lớp xã hội đã được đào tạo những nguyên lý cơ bản về sơ cứu.

Shepherd đã không thể chứng kiến sự phát triển đó. Shepherd tử trận tại Nam Phi, khi bị phục kích trong lúc vận chuyển thương binh bằng xe ngựa năm 1879. Tuy vậy, những di sản ông để lại cho nền y tế vẫn luôn sống mãi.

Với chủ đề "Cứu người giữa biến đổi khí hậu", WFAD 2025 nhấn mạnh: các thảm họa khí hậu như bão tố, nắng nóng, cháy rừng thường ập đến bất ngờ, nhưng chúng ta có thể chuẩn bị. "Học sơ cứu giúp mỗi người sẵn sàng ứng phó khi khẩn cấp. Trong khủng hoảng khí hậu, từng giây phút đều quý giá" - poster của chương trình viết.

Tài liệu chính thức của WFAD cũng nêu ví dụ cách sơ cứu khi có sự cố sức khỏe liên quan khí hậu - mất nước, cháy nắng, say nắng, sốc nhiệt, với các bước sơ cứu nói chung gồm đưa người bệnh ra khỏi môi trường gây hại và đến nơi mát mẻ; cho uống nước để bù lại lượng chất lỏng đã mất; làm mát cơ thể…

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận