Bầy vạc bay trên quê hương màu trắng

NGUYỄN VŨ HIỆP 11/06/2025 16:16 GMT+7

TTCT - Con vạc, tức "dạ lộ" (夜鷺, cò đêm), đã lội xuyên cánh đồng ca dao Việt Nam như một biểu tượng của sự nghèo, gầy, mong manh, và không gì khác.

a - Ảnh 1.

Vạc trong tranh Ohara Koson.

"Không gì khác?" - con vạc dò hỏi tôi bằng đôi mắt tròn xoe màu đỏ. Đậu trên một cành si buông sát mặt nước của đảo hồ Trúc Bạch, nó cất giọng khàn đặc gọi những đồng loại đang ẩn nấp trong hội họa Á Đông. Từ làn sương u uẩn thời Minh mạt, một con vạc non của Bát Đại Sơn Nhân bước ra, ngao ngán kiễng chân trên tảng đá chìm giữa đầm. 

Chưa trút hết lớp lông măng màu hạt dẻ, và chừng như chưa biết bay, nó để gió lay lông mình và ngước nhìn một bông sen trên cao đang rã cánh. Mắt nó mở to, buồn, nhìn xuyên những cánh hoa tàn để chạm đến nhiều dặm cao. Bát Đại Sơn Nhân, một người ẩn tu, có thể gắn đôi mắt con vạc này trên sống mũi Bồ Đề Đạt Ma mà không bị ai chê trách.

Khi dòng sương ấy trôi đến những cánh đồng dần ám muội than trải từ thời Minh Trị đến cuối Thế chiến, những con vạc của Ohara Koson chầm chậm bước ra. Khoác bộ lông đang chuyển từ nâu thành trắng mà bay qua trăng rằm, con vạc thiếu niên mở đôi mắt màu lưu huỳnh nhìn đến chân mây, nơi mỗi cái đập cánh của nó hoài thai một quang cảnh mới. 

Trong một bức tranh khác, con mắt - trăng ấy sẽ chín dần thành màu hổ phách trên sống mũi con vạc vừa chớm thanh niên. Thu đôi cánh trắng xám như đá cẩm thạch, kiên cường bám chặt một cành liễu già sắp bị gió bốc lên trời, nó trừng mắt nhìn cơn giông đang ập đến. Nếu sống sót đến trung tuổi, nó sẽ mang đôi mắt màu đỏ như hòn máu, như mắt một người vừa khóc cạn, hoặc như bản án bình thản của mặt trời sắp khuất núi Tây.

Nhưng tôi lại thích bức tranh năm 1910, nơi Ohara vẽ một con vạc không tuổi, duyên dáng đứng bằng một chân, trong màn sương câm lặng như lúc đầu và trên cành liễu giờ đây tắt gió. Con vạc ấy nhắm mắt, cúi đầu ngoảnh lại, chừng như nhìn về quá khứ, nhưng thực ra sắp rúc đầu ngủ dưới cặp cánh thôi bay. Họa gia đã đợi trong sương lạnh bao lâu để chờ cảnh con vạc sắp ngủ khi đêm kết thúc? 

Và bởi ông vẽ cho mỗi con vạc một ánh mắt khác nhau, tùy theo độ tuổi, tình cảnh và tính khí chúng, tôi tự hỏi liệu ông có lang thang qua những đầm lạnh lúc chiều tà để gom về nguyên một bộ sưu tập ánh mắt, trong sổ hoặc trong trí nhớ, mà sẽ xoe tròn nhìn ông trong những cơn mơ đêm còn trong suốt hơn ban mai. Đừng để các ngăn tủ đêm của ông bị xáo trộn, kẻo bộ sưu tập mắt người và mắt vạc lẫn với nhau, khiến ông thấy những đoàn duyệt binh mà ông từ chối vẽ đập cánh bay xuyên đêm mình, làm con mắt đỏ của ông vô trú xứ.

Còn ca dao nước mình, sao lại bỏ quên những con mắt đỏ? Có thể bởi chúng là điềm xui. Người nông dân nhắm mắt lại, giấu chúng dưới sải cánh mong manh, gầy, nghèo. Còn con vạc thì mở chúng ra tròn xoe lúc chiều tà, khi thức dậy từ những tổ cao để chuẩn bị cho chuyến ăn đêm ẩm ướt. 

Nhưng chúng chưa vội bay, mà cứ đậu trên cao, trên cành mềm mọc ra chiếc tổ. Chúng khởi sự gọi nhau bằng từng âm chậm rãi, được ghi là "vạc" trong tiếng Việt, "kwak" trong tiếng Hà Lan, "квак" trong tiếng Ukraine, "kvakoš" trong tiếng Czech, wactli trong tiếng Nahuatl, kowak trong tiếng Indonesia.

Cũng như con "mèo" Việt và con "miêu" Hán đều kêu meo meo, những từ trên đều chỉ con vạc. Liệu loài vạc có quá dốt để đọc bất cứ từ nào ngoài tên mình, chẳng khác người mù chữ phải nhắm mắt ký tên lên những văn bản mà họ không đọc được? Hay những âm thanh và ánh mắt màu gỉ sét của chúng chứa các sắc độ khàn nằm ngoài lỗ tai và ánh mắt của con người, trừ kẻ quen biết chúng như Ohara? Nếu thế, liệu ca dao cũng có các sắc độ khàn và gỉ, nằm ngoài tầm hiểu biết của kẻ không làm đồng? Có thể lắm. 

"Con cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao" - một tổ tiên vô danh ngân nga gọi. Và Phùng Cung đáp: "Nắng", "cái vạc ăn ngày", "đạp cánh đồng xơ xác bước liêu xiêu". Thông thường, vạc kiếm ăn đêm, cò kiếm ăn ngày; cả "con cò ăn đêm" lẫn "cái vạc ăn ngày" đều là kẻ phải kéo dài ca làm vì đói, đói đến mức đậu nhầm cành mềm hoặc bước liêu xiêu trên cánh đồng khô. 

"Con chưa biết con cò con vạc" - em bé trong lời đáp của Chế Lan Viên dường giống tôi ngày nay, vì nếu không tra Google, tôi sẽ không biết cò với vạc khác nhau ra sao, và sẽ không biết trong câu ca dao và thơ Phùng Cung có những sắc độ khàn vi tế.

Cơ duyên giữa tôi và bầy vạc khởi vào một đêm tháng hai, khi chúng tôi đi thuyền trên hồ Trúc Bạch. Nằm dài trên băng ghế và thả cho thuyền trôi, tôi ngắm những lưỡi sương tỏa xuống từ trời đang liếm mòn từng nóc nhà của thành phố. 

Cọt kẹt, cọt kẹt, tiếng bàn đạp vẳng vọng hình như ngưng lại, khi từng thuyền thiên nga ngẩng đầu nhìn cánh vạc bay ngang. Vỗ cánh rất nhẹ, và không gợn một âm thanh, cái bóng trắng xám của của con chim đêm trôi qua những đỉnh đầu người, rồi biến mất trong tán cây cổ thụ đen thẫm đang xõa tóc soi gương trên mặt nước. 

Nhận nhầm đồng loại, con thuyền hình chim trắng của tôi cọt kẹt bơi đến sát hòn đảo đen thẫm, nơi đền Thủy Trung Tiên - miếu thờ chen chúc những thần cá, thần chó con và Mẫu Thủy Phủ - lẩn khuất sau những rễ si rủ xuống từ vòm cây cao. Từ lòng đảo, hàng trăm tiếng vạc ngắt quãng nối đuôi nhau vọng ra, như thể tán cây - thành phố chim đen tuyền lọt giữa thủ đô sáng đèn - đang nói tiếng vạc để xua đi con thiên nga cơ khí.

Bốn tháng trước đó, người bảo vệ của đền Thủy Trung Tiên nói với một tờ báo rằng có khoảng 300 con cò, vạc trên đảo, số lượng và chủng loài biến động theo nhịp di trú. Lần lại những dấu chân chim trong lịch sử Hà Nội, tôi biết chim tụ về đền từ cuối thập niên 2000, chẳng bao lâu sau khi đàn cò 1.000 con tụ về trên phố Nguyễn Phong Sắc rồi tan biến, và ba thập kỷ sau ngày hàng cây sao cổ thụ trên phố Lò Đúc - một thời mang danh "bang cò ỉa" - vuột mất đàn cò một vạn con. 

Thành phố chim không nằm trên mặt đất, nó là những con rồng trong suốt làm bằng gió mùa, xuyên nó chim bay đi tìm những râu rồng mưa xuống thành mùa bọ, ếch, cá, tôm. Chắc ngôi đền trên hồ Trúc Bạch chỉ là một khu lưu trú nằm ở ngoại ô rồng, nơi bê tông chưa chém đứt những chòm râu mưa, và nơi những cây si già, như loài rồng đất bao dung, chậm rãi thả những giọt mưa quả mọng để nuôi đều, quanh năm, một dân số cá.

Một chiều đầu tháng năm, chúng tôi đi xuyên thứ nắng vàng nhẹ trong vắt và hơi óng ánh như thủy tinh lúc giao mùa, để bước trên đường cong của cây cầu đá dẫn lên đảo. Sau cổng đền, tiếng ồn trắng của đường Cổ Ngư dần nhường bước cho những bóng đen của cây si, cái cây gom nắng thành từng vũng hoặc giọt trên sân đền, làm tóc chúng tôi chốc chốc ánh lên rồi vụt tắt. Càng về khoảng sân cuối đảo, bóng đen ấy càng gián đoạn vì những giọt mưa trắng như mực bút xóa vụt rơi xuống từ tầng không. 

Chúng tôi bước nhanh, rồi chạy, trên những bóng cây lốm đốm trắng như đêm hoa râm, để tránh cơn mưa phân chim đang nhỏ lên nhang khói. "Ở đâu có vết màu trắng là nơi đó có chim" - ông bảo vệ từng trả lời phỏng vấn như vậy. Tôi chưa gặp một đốm trắng nào trong những bức vẽ của Ohara Koson. Nếu nông dân Việt Nam kiêng tả đôi mắt vạc đỏ thì Ohara kiêng vẽ đốm phân vạc trắng; dù đàn cá, cây si và nông dân trân quý phân như bánh manna rơi xuống từ trời. Tôi không biết Bát Đại Sơn Nhân nghĩ sao, chỉ biết bầu trời trong tranh ông toàn một màu trắng.

"Sau khi báo đài đưa tin nhiều loài chim về đền sinh sống, khiến đền Thủy Trung Tiên đón nhiều du khách hơn, nhiệm vụ chính của tôi là trông coi đền, hằng ngày đi dọn phân chim, đảm bảo khu vực này luôn sạch sẽ" - ông bảo vệ kể. 

Bầy vạc vừa ban tính thiêng cho ngôi đền, vừa làm đền mất thiêng, và công tác canh đền tập trung vào việc che đi những tục phàm của đàn Tiên cánh xám. Lúc chạng vạng, khi đền đóng cửa, ông bảo vệ sẽ vặn nước máy để xối sạch phân Tiên. Ông trở lại thanh thản khi cõi trắng ấy trôi khỏi sân đền nhanh hơn gió mây, ngấm vào đất để ban phước cho cây si và loang khắp hồ để độ trì cho cá. 

Rồi ông đi nấu cơm trong tiếng kêu tan tác của bầy vạc. Khoa học đoán rằng "khi gió mùa thơm ngát", "lũ chim giang hồ" trong nhạc Văn Cao sẽ họp thành đàn bằng nhiều cách vi tế, bao gồm việc đánh hơi mùi phân và lông vũ vương quanh những tổ chim bỏ hoang dọc tuyến di cư. 

Tôi tự hỏi nếu quê hương màu trắng của đàn vạc bị xóa khỏi hòn đảo để rồi lan khắp hồ mỗi ngày một lần khi nắng tắt, liệu chúng có tưởng lãnh địa của mình đã trải ra khắp hồ Trúc Bạch, và có lộn cổ xuống hồ nếu tìm chốn đậu chỉ bằng dấu phân? Tôi vẫn nghe vọng trong tai mình tiếng vạc của đêm tháng hai, khi bầy vạc dường muốn xua những thuyền thiên nga bay đi, trả lại mặt hồ bình yên cho chúng gieo mình xuống.

Qua những rễ cây phủ bóng mặt hồ, phân vạc biến thành quả si, quả si biến thành thịt cá, thịt cá biến thành phân vạc. Qua những hang giun đào xuyên huyệt mộ, thân người biến thành phân giun, phân giun biến thành hạt lúa, hạt lúa biến thành đứa bé sẽ xa quê. Về già, đứa trẻ ấy nằm xuống khu mộ tổ lọt giữa ruộng lúa nước, để nối lại với thân thể cha mẹ thông qua những hang giun mới đào. Chợt Mai Văn Phấn ghi: Đồng chiêm / Con vạc nhìn / Ngôi mộ / Dầm chân trong nước. 

Thần Shiva lần chuỗi tràng hạt làm từ đầu lâu, mà khi cởi ra sẽ tạo thành tổng số đất trên hành tinh màu nước lam đất lục. Trong sợi dây mảnh xâu chuỗi những hộp sọ luân hồi xuyên quên lãng, rễ si đang nối với hang giun.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận