Bệnh Rh & chuyện 2 người Úc

PHẠM HẰNG 27/03/2025 05:39 GMT+7

TTCT - Bệnh Rh là bệnh tan máu ở thai nhi và trẻ sơ sinh, xảy ra khi hệ thống miễn dịch của người mẹ phản ứng với các tế bào hồng cầu của thai nhi.

bệnh tan máu - Ảnh 1.

James Harrison, người hơn 1.100 lần hiến máu. Ảnh: Hội chữ thập đỏ Úc

Bệnh Rh là bệnh tan máu ở thai nhi và trẻ sơ sinh, xảy ra khi hệ thống miễn dịch của người mẹ phản ứng với các tế bào hồng cầu của thai nhi. Theo những cách khác nhau, hai người Úc - một nhà khoa học tiên phong và một anh hùng trong đời thường - đã đóng góp quan trọng cho cuộc chiến chống bệnh này.

Ngày 17-2, "người đàn ông có cánh tay vàng" James Harrison qua đời ở tuổi 88, khép lại hành trình gần 60 năm hiến máu đầy nhân ái, giúp cứu sống hơn 2,4 triệu trẻ sơ sinh. Theo The New York Times, suốt gần 7 thập kỷ, ông Harrison đã 1.170 lần đưa tay ra để hiến tặng anti-D, một kháng thể hiếm dùng trong điều trị bệnh bất đồng nhóm máu mẹ con hệ Rh. 

Biến chứng của sự bất đồng nhóm máu này là bệnh Rh, và người tiên phong nghiên cứu cách điều trị nó là một người Úc khác - bác sĩ và nhà khoa học y sinh John Gorman (1931).

Hệ miễn dịch của mẹ tấn công hồng cầu của con

Mỗi người sinh ra có một nhóm máu khác nhau, được quy định bởi nhiều hệ kháng nguyên, trong đó hệ nhóm máu ABO và Rh (Rhesus) là phổ biến và quan trọng nhất. Hệ ABO gồm 4 nhóm máu A, B, O và AB. Hệ Rh được xác định bằng sự hiện diện của kháng nguyên D trên bề mặt hồng cầu gọi là Rh+ (Rhesus D dương), hoặc không có sự hiện diện của kháng nguyên D gọi là Rh- (Rhesus D âm).

Trong khi bất đồng nhóm máu mẹ con ABO chỉ gây tan máu sau sinh, bất đồng nhóm máu mẹ con hệ Rh có thể gây tan máu ngay trong thời kỳ bào thai. Liên đoàn Sản phụ khoa quốc tế ước tính bệnh gây ra hơn 160.000 ca tử vong chu sinh và 100.000 ca khuyết tật (mất thính lực và bại não) hằng năm. Khoảng 85% trẻ sơ sinh có nhóm máu Rh+ và 15% bà mẹ có nhóm máu Rh-. Ở Việt Nam, hầu hết mọi người mang nhóm máu Rh+, khoảng 0,1% người mang nhóm Rh- .

Khi người mẹ có nhóm máu Rh- có con với người đàn ông có nhóm máu Rh+, thai nhi có thể có nhóm máu Rh+. Hệ thống miễn dịch của mẹ có thể tiếp xúc với các tế bào hồng cầu Rh+ của con vào những thời điểm nhất định như khoảng từ tuần thứ 8 thai kỳ, qua thủ thuật như chọc ối, sinh nở… hoặc người mẹ vô tình được truyền máu Rh+ và kích thích phản ứng miễn dịch sinh ra kháng thể anti-D. Trong trường hợp nào thì nhóm máu của mẹ con cũng được coi là không tương thích Rh.

Kháng thể anti-D trong máu mẹ đi qua bánh nhau, gắn lên hồng cầu của thai, gây kết tụ và phá hủy hồng cầu, dẫn đến thiếu máu mức độ từ nhẹ đến nặng tùy thuộc vào lượng kháng thể cơ thể mẹ sản xuất, mà lượng kháng thể này lại phụ thuộc vào số lần tiếp xúc. Đồng nghĩa những lần mang thai sau thì phản ứng này càng mạnh mẽ hơn.

Do vậy, dù sự không tương thích Rh không gây hại cho người mẹ, hiếm khi ảnh hưởng đến lần mang thai đầu, song có thể gây sẩy thai liên tiếp ở những lần mang thai sau, hoặc khi sinh ra trẻ bị vàng da nặng, suy tim, gan lách to, phù não và tử vong sớm sau sinh.

Những hậu quả nặng nề trên đã thúc đẩy các nhà khoa học tìm nguyên nhân, phương pháp dự phòng hiệu quả và đã đạt được những thành tựu nhất định.

Thành tựu của Gorman

Năm 1937, bác sĩ người Mỹ Alexander S. Wiener (1907-1976) và nhà sinh học người Áo Karl Landsteiner (1868-1943) phát hiện ra yếu tố Rh ở hồng cầu khỉ Macacus Rhesus (tên kháng nguyên được đặt theo tên của loài khỉ Rhesus). Từ đó, hệ Rh trở thành hệ thống nhóm máu quan trọng thứ hai bên cạnh ABO và Wiener sớm nhận ra yếu tố máu mới này có liên quan đến các vấn đề trong truyền máu.

Năm 1948, ông đã báo cáo hai trường hợp trẻ sơ sinh bị thiếu máu nghiêm trọng do xuất huyết nhau thai tiềm ẩn trong quá trình mang thai hoặc sinh nở. Một trẻ đã hồi phục và trẻ còn lại tử vong mặc dù đã được truyền máu. Trong cả hai trường hợp này, các bà mẹ đều có Rh+.

Nhiều trường hợp tương tự được báo cáo sau đó và chứng minh được hồng cầu của trẻ bị anti-D phá hủy. Vào thời điểm này, bệnh Rh là một kẻ giết người thầm lặng. "Người mẹ cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh và rồi đột nhiên, thai của cô ấy bị chết lưu. Thật đáng sợ" - ABC News (Úc) dẫn lại lời Gorman.

Theo ABC News, Gorman có đóng góp quan trọng nhưng ít người, ngay cả ở Úc, biết tới. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống y khoa, cả cha và mẹ đều là bác sĩ. Học xong y tại quê nhà, ông cùng vài người bạn sang Mỹ. 

Làm việc tại khoa nhi ở một bệnh viện tại Nam Bronx giúp Gorman quen với căn bệnh Rh, trước khi chuyển sang làm bác sĩ nội trú chuyên về huyết học và y học xét nghiệm. Ông nhớ lại: "Có thời điểm, 10% số ca tử vong ở trẻ sơ sinh tại Melbourne là do bệnh Rh". Sự nguy hiểm của căn bệnh đã thúc đẩy ông đi tìm phương pháp dự phòng.

bệnh tan máu - Ảnh 2.

Bác sĩ và nhà khoa học y sinh John Gorman. Ảnh: ABC News

Gorman đã tìm thấy ý tưởng tuyệt vời sau khi đọc một chương trong cuốn sách giáo khoa Bệnh lý học tổng quát của Howard Florey, người Úc đoạt giải Nobel, có đoạn "Sự hiện diện của kháng thể lưu hành, dù được sản xuất chủ động hay thụ động, đều làm giảm và có thể ức chế hoàn toàn phản ứng miễn dịch đối với kháng nguyên có liên quan".

Gorman hào hứng kể lại: "Đúng vậy, năm phút sau khi đọc thông tin đó, tôi biết rằng phương pháp này sẽ ngăn chặn được kháng thể Rh. Nếu chúng ta tiêm kháng thể Rh cho các bà mẹ, cơ thể họ sẽ không tự sản xuất được kháng thể nào".

Ý tưởng này bị coi là nghịch lý vào thời điểm đó, và để thực sự thành phương pháp điều trị là một chặng đường đầy khó khăn. Đầu tiên, Gorman cùng cộng sự đã tuyển 36 tình nguyện viên nam có Rh-, là tù nhân tại nhà tù khét tiếng Sing Sing của New York. 

Mỗi người đều được truyền máu Rh+ để kích hoạt kháng thể và trong vòng 72 giờ, một nửa số tình nguyện viên được truyền anti-D. Kết quả đã thành công khi tất cả 18 người được tiêm anti-D, không ai có kháng thể. Tuy nhiên, thử nghiệm trên nam giới là một chuyện, thử nghiệm trên phụ nữ mang thai lại chứa rủi ro hoàn toàn khác và không được cho phép.

Tình cờ, em dâu của Gorman có nhóm máu Rh-, đang mang thai con đầu lòng và là ứng viên lý tưởng để thử nghiệm phương pháp điều trị này. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Gorman đã gửi lọ huyết thanh chứa anti-D trong một thùng xốp có đá đông lạnh từ Mỹ, qua đường hàng không đến Anh cho cô. Và cô đã thuyết phục bác sĩ dùng cho mình. Kết quả đã diễn ra như mong đợi, cơ thể cô không sinh kháng thể sau khi sinh con đầu có Rh+, và 1 năm sau cô đã sinh con thứ hai khỏe mạnh vào năm 1965.

Sự thành công của phương pháp này, có tên chính thức là RhoGAM ở Mỹ hoặc Anti-D ở Úc, trở thành một tin tức y khoa lớn tại thời điểm đó và đã cứu sống hàng triệu trẻ em sau này. Điển hình tại Anh, biện pháp dự phòng sau sinh và dùng thuốc để điều trị các tình huống trong thai kỳ như chọc ối, phá thai… tỉ lệ tử vong đã giảm từ 46/100.000 ca sinh ban đầu xuống còn 1,6/100.000 ca.

Vẫn phải dựa vào người hiến máu

Hiện nay, thuốc Globulin miễn dịch Rh (RhIg) chứa kháng thể anti-D, được tiêm cho phụ nữ có Rh- một liều vào tuần thứ 28 của thai kỳ và tiêm lại trong vòng 72 giờ sau khi chuyển dạ để điều trị tình trạng không tương thích Rh giữa mẹ và thai nhi.

Ở các nước có thu nhập cao, chỉ có RhIg đa dòng được sử dụng. Tại Mỹ, RhIg được sản xuất bằng cách phân đoạn IgG từ huyết tương gộp của những người hiến tặng chủ yếu là nam giới, được tiêm các tế bào hồng cầu Rh+ có chủ đích. 

Mặc dù biện pháp này rất hiệu quả, nhưng nguồn cung RhIg không đủ và giá cả đắt đỏ, không thể đáp ứng nhu cầu của tất cả phụ nữ có nguy cơ trên toàn thế giới.

Giải pháp thay thế là kháng thể IgG đơn dòng được sản xuất bằng công nghệ lai và ADN tái tổ hợp, khắc phục được hạn chế trên và cung cấp nguồn kháng thể gần như không giới hạn. Đi đầu trong lĩnh vực này là Rhoclone - chế phẩm kháng thể IgG đơn dòng do Ấn Độ sản xuất và là sản phẩm duy nhất được bán trên thị trường, chủ yếu ở các nước châu Phi.

Một thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên so sánh hiệu quả và tính an toàn của kháng thể đơn dòng kháng Rh với kháng thể đa dòng kháng Rh để phòng ngừa miễn dịch Rh ở mẹ được thực hiện với 206 người tham gia, trong đó 105 người được dùng thuốc kháng thể đơn dòng anti-D và 101 người được dùng thuốc kháng thể đa dòng anti-D. 

Bệnh Rh & chuyện 2 người Úc - Ảnh 3.

Ông James Harrison trong lần hiến máu cuối cùng (lần thứ 1173) năm 2018. Ảnh: 9 News

Theo kết quả đăng trên trang Springer Nature tháng 6-2019, hiệu quả và độ an toàn của chế phẩm đơn dòng kháng thể D tương đương với chế phẩm đa dòng kháng thể D khi được sử dụng để phòng ngừa miễn dịch Rh ở mẹ. Đây là nghiên cứu hiếm hoi được công bố quốc tế về hiệu quả của kháng thể đơn dòng, và đã tạo thêm niềm hy vọng về loại thuốc mới trong tương lai.

Tuy nhiên, cần có nhiều thử nghiệm lâm sàng kéo dài và nghiêm ngặt hơn với số lượng lớn tình nguyện viên tham gia để xác định hiệu quả của thuốc. 

Trong nhiều năm qua, những nỗ lực sản xuất RhIg đơn dòng hiệu quả đã không thành công vì nhiều lý do, bao gồm thiếu kinh phí cho các thử nghiệm giai đoạn 3, thiếu hiểu biết về cơ chế của loại miễn dịch dự phòng này, không có mô hình động vật RhD và một số kháng thể đơn dòng thậm chí có thể làm tăng nguy cơ dị ứng. 

Mặt khác, những rào cản về mặt đạo đức khi tiến hành nghiên cứu ở phụ nữ có thai cũng đóng vai trò quan trọng.

Do vậy, cần có sự quan tâm và đầu tư mạnh mẽ hơn nữa để phát triển loại thuốc hiệu quả, sản xuất số lượng lớn với giá cả hợp lý để mọi phụ nữ mang thai có chỉ định đều có thể tiếp cận được, đặc biệt ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.

Nếu thành công sẽ giúp xóa sổ căn bệnh Rh trong tương lai và cứu sống hàng triệu trẻ em. Và tất nhiên, hiện tại vẫn phải dựa vào huyết thanh của người hiến máu.

Úc là quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai chương trình chống D miễn phí. Với khoảng 200 tình nguyện viên có kháng thể hiếm như ông Harrison, chương trình giúp khoảng 45.000 bà mẹ mang thai mỗi năm, theo Hội chữ thập đỏ Úc.

Dù đã ngoài 90 tuổi, ông Gorman vẫn đang tích cực tham gia Sáng kiến Toàn cầu về xóa bỏ bệnh Rh (WIRhE), một tập hợp các nhà khoa học và chuyên gia chăm sóc sức khỏe nỗ lực mở rộng khả năng tiếp cận thuốc kháng thể anti-D cho 50% bà mẹ Rh- trên thế giới.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận