Hậu sáp nhập đại học: Bài toán quản trị

TTCT - Giáo dục phổ thông của Việt Nam là điểm sáng được công nhận qua nhiều đánh giá và xếp hạng khách quan trên thế giới như PISA hay HDI, song giáo dục đại học vẫn là điểm yếu khi so sánh trong khu vực và ở quy mô toàn cầu.

sáp nhập ĐẠI HỌC - Ảnh 1.

Xét về mô hình quản trị và các đầu mối quản trị đại học, có lẽ đây là tổ chức có nhiều hình thức quản trị phức tạp nhất. Điều này khiến hệ thống giáo dục đại học Việt Nam chưa thể bứt phá và có thứ hạng xứng với tiềm năng.

Chật vật phát triển trên nền phân mảnh

Kể từ Đổi mới, giáo dục đại học (GDĐH) của Việt Nam đã trải qua những cải cách và thay đổi đáng kể - điều được công nhận bởi cả giới chuyên gia, giới làm chính sách, các tổ chức quốc tế uy tín và có lẽ cả xã hội. Một báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới đã đánh giá cao những thành tựu của GDĐH Việt Nam, bao gồm việc ban hành và sửa đổi Luật GDĐH, cùng đề án thí điểm trao quyền tự chủ cho các trường ĐH từ năm 2014 (nghị quyết 77/NQ-CP năm 2014).

Có thể dẫn vài con số cơ bản: tỉ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ tại các trường ĐH tăng từ 25% (năm 2018) lên trên 35% (năm 2025); số lượng bài báo công bố quốc tế của các cơ sở học thuật tại Việt Nam trên hệ thống Web of science tăng từ khoảng 400 bài (năm 2000) lên 3.600 bài báo (năm 2018) và tiếp tục tăng lên 14.320 bài báo (năm 2024). Các ĐH Việt Nam bắt đầu xuất hiện trong những bảng xếp hạng quốc tế với 4 trường nằm trong top 200 châu Á theo bảng xếp hạng của QS.

Nhưng những tiến bộ ấy đạt được trên một hệ thống quản trị GDĐH Việt Nam phân mảnh, thiếu liên kết hợp tác giữa các bộ ngành, địa phương. Trừ các cơ sở tư thục, những cơ sở công lập được quản trị theo 4 mô hình khác nhau: (1) các trường ĐH là thành viên của 1 ĐH (mô hình ĐH 2 cấp); (2) các trường ĐH thuộc Bộ GDĐT; (3) các trường ĐH thuộc những cơ quan chuyên ngành; (4) các trường ĐH thuộc UBND tỉnh/thành phố. Sự phân mảnh, thiếu liên kết, hỗ trợ giữa 4 nhóm cơ sở này đã và đang kìm hãm sự phát triển của GDĐH Việt Nam.

Bài toán cho Việt Nam

Nghị quyết 71 và những trao đổi chính sách gần đây đang hướng tới một công cuộc cải cách mạnh mẽ trong GDĐH của Việt Nam. Vậy khi nhìn vào quản trị ĐH, chúng ta thấy những gì?

Về quản trị, các trường ĐH công lập Việt Nam đang vận hành theo 4 mô hình quản trị khác nhau và hàng chục đầu mối chủ quản các cấp. Do nhiều đầu mối quản trị, việc luân chuyển cán bộ, đặc biệt là vị trí lãnh đạo, giữa các trường là rất khó khăn và gây ra sự thoái hóa về học thuật - điều mà các ĐH tiên phong trên thế giới đặc biệt lưu tâm và dành sự quan tâm lớn để tiến hành cải cách liên tục.

Bên cạnh Bộ GD-ĐT, hàng loạt bộ khác cũng quản lý trường ĐH. Bộ Công Thương quản lý 11 trung tâm nghiên cứu, 11 trường ĐH và 19 trường cao đẳng. Các trường ĐH thuộc địa phương quản lý gây ra sự lúng túng nhất định khi bộ máy chính trị địa phương thường không có nhiều kinh nghiệm về quản trị ĐH. Điều này dẫn tới trường hợp Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh kiêm nhiệm cả vị trí Hiệu trưởng Trường ĐH Hạ Long nhiệm kỳ 2020-2025.

Với thực tế nêu trên, các trường ĐH địa phương, ĐH có chủ quản thuộc các tổ chức chuyên ngành một lúc chịu nhiều sự điều phối khác nhau. Về mặt chuyên môn phải báo cáo Bộ GD-ĐT, trong khi đó vẫn chịu phân bổ ngân sách và điều phối nhân sự từ phía đơn vị chủ quản. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp cơ quan chủ quản đã cử cán bộ chưa thực sự phù hợp vào vị trí lãnh đạo tại cơ sở GDĐH.

Có thể thấy vướng mắc lớn nhất của hệ thống GDĐH tập trung ở cơ chế quản trị dẫn tới sự kiểm soát lỏng lẻo và đầu tư dàn trải của hệ thống giáo dục. Việc các trường ĐH được quản trị rải rác ở các bộ ngành, địa phương không mang lại giá trị mạnh của hệ thống. Hệ thống quản trị ĐH này cần được giảm đầu mối chủ quản để thuận lợi trong việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo cũng như giảng viên có năng lực, trừ các ngành mang tính đặc thù rất cao tổ chức dưới dạng học viện. Có thể thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo trong lĩnh vực GDĐH như đã thực hiện với các lãnh đạo địa phương hoặc lãnh đạo các trường phổ thông.

Đi kèm là thay đổi cơ chế ngân sách, tập trung ngân sách cho các chuyên ngành mũi nhọn tại các trường ĐH mục tiêu tiên tiến. Và phát huy mạnh mẽ các trường ĐH theo hướng nghiên cứu.

sáp nhập ĐẠI HỌC - Ảnh 2.

Hệ thống quản trị các cơ sở GDĐH công lập Việt Nam

Việc các viện nghiên cứu nằm rải rác khắp các bộ ngành chứ không được đưa vào trường ĐH là sự lãng phí về nguồn lực trí thức. Năng lực triển khai các nghiên cứu chuyên sâu bị tách rời khỏi môi trường học thuật. Hiện nay, quản lý quỹ nghiên cứu khoa học tách rời khỏi quỹ phát triển GDĐH, cần hợp nhất hai quỹ này. Sáp nhập các cơ quan nghiên cứu không thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia về với các trường ĐH nhằm làm tăng tỉ lệ giảng viên có bằng tiến sĩ, đưa nghiên cứu vào môi trường học thuật và tăng tỉ lệ nghiên cứu tại các trường ĐH.

Cơ chế quản trị các cơ sở GDĐH công lập hiện nay đã được duy trì từ rất lâu và ngày càng bộc lộ nhiều bất ổn. Việc cải cách hệ thống GDĐH theo hướng sáp nhập, giảm bớt các đầu mối quản trị để tạo điểm đột phá và phân bổ nguồn lực thích đáng hơn là hướng đi đúng. Nhưng quá trình cải cách này cần là một lộ trình với nhiều chặng, như có thể thấy trong trường hợp của nước Pháp, với cả những hay - dở cần tham khảo.

Hai chặng của cải cách tại pháp

Năm 2003, nước Pháp - một trong những cái nôi của nền khoa học và GDĐH thế giới với hơn 70 học giả đoạt giải Nobel - bị sốc khi chỉ có 2 trường nằm trong Top 100 trên ARWU (bảng xếp hạng các trường ĐH do ĐH Giao thông Thượng Hải công bố) với thứ hạng thấp. Trong khi đó, Mỹ góp tới 58 trường, Anh 9 trường và Đức 5 trường.

Hai trường của Pháp được xếp hạng là Paris 6 - chuyên về khoa học kỹ thuật - hạng 65. Paris 11 - nơi có tới 4 nhà toán học đoạt giải Fields (trong đó có GS Ngô Bảo Châu) được xếp hạng 72, bằng hạng với trường Rochester của Mỹ - nơi có truyền thống kém hơn rất nhiều.

Kết quả yếu kém trên đã dẫn tới một cuộc đại phẫu nền GDĐH Pháp với những cuộc sáp nhập, liên kết chưa từng có. Cuộc cải cách này có thể chia làm 2 giai đoạn: 2009-2016 và 2018-2020.

Giai đoạn 1 diễn ra với việc sáp nhập hoặc tái sáp nhập các trường ĐH mà Pháp từng chia nhỏ trong thời kỳ trước. Ví dụ, các trường hợp tái sáp nhập ĐH Strasbourg từ 3 trường (2009), ĐH Aix-Marseille từ 3 trường (2012), ĐH Bordeaux từ 3 trường (2014), thành lập mới ĐH CentraleSupélec (2015) được sáp nhập từ hai ĐH hàng đầu của Pháp nhằm trở thành một ĐH hàng đầu thế giới. Trường ĐH này trở thành nòng cốt và sáp nhập tiếp vào năm 2019. Trong giai đoạn này, các chính sách lớn đầu tư vào cơ sở vật chất, hợp tác nghiên cứu khoa học được Chính phủ Pháp đầu tư lớn qua các chiến lược Campus plan (2008), Initiative d'excellence (idex, 2010), Initiatives - Science - Innovation - Territories - Economy (I-SITE, 2013) với việc đầu tư trọng điểm vào các trường tốp đầu với mục tiêu rõ ràng là Pháp cần có trường ĐH trong top 50 thế giới.

Giai đoạn 2, Chính phủ Pháp mạnh tay hơn khi sáp nhập ở quy mô lớn các cơ sở GDĐH và nghiên cứu trọng điểm. ĐH Paris-Saclay thành lập năm 2019 trên cơ sở sáp nhập 4 trường ĐH kỹ thuật, trong đó có Paris 11. ĐH Paris Sciences & Lettres (PSL), hình thành năm 2010 và được công nhận là université expérimentale (ĐH liên kết thí điểm) năm 2019, quy tụ 11 trường thành phần. ĐH Sorbonne mới được thành lập năm 2018 dựa trên sáp nhập và liên kết nhiều ĐH, viện nghiên cứu và cả Bảo tàng Khoa học tự nhiên. Giai đoạn 2018-2020, Chính phủ Pháp sáp nhập tới tận các viện nghiên cứu, các bảo tàng, để các trường ĐH quản lý và khai thác.

Năm 2025, ĐH Paris-Saclay được ARWU xếp hạng tốt nhất nước Pháp, đứng thứ hai thế giới về môn toán và thứ tám thế giới môn vật lý. ĐH Paris Sciences & Lettres (PSL) và ĐH Sorbonne đứng kế tiếp trên bảng xếp hạng uy tín nhất thế giới.

Sau 2 năm sáp nhập, thứ hạng các trường ĐH Pháp trên bảng xếp hạng toàn cầu đã thay đổi lớn. Năm 2018, Pháp chỉ có 3 trường thuộc Top 100 với các vị trí 36, 42 và 64; nhưng năm 2020 Pháp đã có 5 đại diện thuộc Top 100 với các vị trí 14, 36, 39, 65 và 99 cùng nhiều ngành khoa học cơ bản vào Top 10. Danh sách 5 trường trong Top 100 theo thứ tự bao gồm Paris-Saclay University (2020), PSL University (2019), Sorbonne University (2018), University of Paris (2019), University of Grenoble Alpes (2016) đều là những trường vừa mới được sáp nhập và đầu tư theo chiến lược của Chính phủ Pháp.

Trong các báo cáo thành quả, những điểm tích cực cũng được nêu, gồm: tiếp cận mạng lưới rộng hơn và đa dạng hơn, cơ hội hợp tác nghiên cứu liên ngành, khả năng tiếp cận nguồn lực và tài trợ lớn hơn, phát triển kỹ năng mới trong môi trường đa văn hóa.

Tuy nhiên, về mặt bản chất của chất lượng GDĐH, giai đoạn 2 năm 2018-2020 chất lượng GDĐH Pháp đã không có những kết quả đột biến. Việc sáp nhập và sắp xếp lại hệ thống GDĐH và nghiên cứu đơn thuần là nhằm tiến lên trên các bảng xếp hạng. Hơn nữa, quá trình sáp nhập sâu rộng đó tác động lớn lên toàn bộ hệ thống, đến toàn bộ quy trình làm việc của nhân sự, đòi hỏi thời gian thích nghi với cấu trúc và quy trình mới. Các thay đổi có tác động lớn nhất đã được liệt kê bao gồm: các vị trí lãnh đạo và quản lý, quy trình làm việc và báo cáo, môi trường và đối tượng làm việc bị thay đổi, xung đột văn hóa...

Hiệu quả của sáp nhập

Khi khởi động quá trình sáp nhập các cơ sở GDĐH, Việt Nam cần lưu ý các mục tiêu quan trọng mà các quốc gia khác đã đạt được bao gồm: i) nâng cao tính kết nối của hệ thống ĐH; ii) gắn nghiên cứu trọng điểm với các cơ sở GDĐH; iii) tăng tính liên ngành, đa ngành trong GDĐH; iv) kết nối vùng, khu vực của một đơn vị GDĐH.

Kết nối để thành một hệ thống lớn mạnh hơn là một trong những yếu tố cốt lõi khi tiến hành sáp nhập các trường ĐH, vì nó giúp mạng lưới hợp tác được mở rộng không chỉ trong phạm vi nội bộ mà còn vươn ra tầm quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi học thuật, nghiên cứu liên ngành, chia sẻ nguồn lực và cơ sở vật chất. Nhờ vậy, các trường ĐH sau sáp nhập có thể tận dụng tối đa thế mạnh riêng của từng đơn vị thành viên, từ đó xây dựng hệ sinh thái giáo dục đa dạng và toàn diện hơn. Điều này được chứng thực một phần qua việc các ĐH vùng, ĐH quốc gia đã có sự phát triển đáng kể trong những năm qua.

Nhiều quốc gia đã xây dựng các ĐH vùng với quy mô lớn, đóng vai trò trung tâm trong việc kết nối các trường thành viên, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trên địa bàn. Mô hình này giúp huy động nguồn lực địa phương hiệu quả hơn, tận dụng thế mạnh đặc thù của từng vùng miền, đồng thời tạo ra các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo có tác động lan tỏa lớn. Các khu vực kinh tế lớn ở Việt Nam như duyên hải Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ đều có thể hình thành các ĐH vùng lớn nằm ở nhiều tỉnh, mang tính trọng điểm bao phủ phát triển kinh tế - xã hội của một khu vực.

Liên kết vùng không chỉ giúp mở rộng quy mô đào tạo, nghiên cứu mà còn tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành mũi nhọn phù hợp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng khu vực. Nhờ vậy, các ĐH vùng có thể xây dựng chiến lược đào tạo sát thực tiễn, gắn kết với doanh nghiệp địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của cả hệ thống GDĐH trên bình diện quốc gia. Với quá trình sáp nhập mới, cơ sở GDĐH có thể trở thành những thực thể mới bao trùm gồm nhiều mảng của phát triển tri thức, thực hành và đưa khoa học kỹ thuật vào đời sống đúng theo tinh thần của nghị quyết 71. Thực thể này sẽ khép kín từ việc đào tạo nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học cơ bản và nghiên cứu ứng dụng bao gồm cả lĩnh vực văn hóa, y tế… Khi đó nguồn lực ĐH sẽ dịch chuyển từ đào tạo sang dịch vụ, nghiên cứu chuyển giao khoa học kỹ thuật đúng theo định hướng chung của các ĐH lớn trên thế giới và kỳ vọng của xã hội về một hệ thống GDĐH có tầm vóc và đẳng cấp.

Sáp nhập các trường nhằm tăng tính liên ngành, đa ngành trong GDĐH giúp mở rộng phạm vi kiến thức cho sinh viên, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tư duy sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề phức tạp. Khi các trường ĐH thúc đẩy liên kết giữa nhiều lĩnh vực, sinh viên có cơ hội học hỏi từ các chuyên gia đa dạng, tiếp cận các phương pháp nghiên cứu mới, từ đó hình thành nên nguồn nhân lực linh hoạt, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động hiện đại. Việc tồn tại các trường đơn ngành nằm rải rác ở các bộ ngành dẫn tới việc phát triển cục bộ và thiếu tính cạnh tranh, đặc biệt trong các lĩnh vực liên ngành. Trong bối cảnh cần đẩy mạnh phát triển robotic, STEM, IoT thì việc liên ngành là trọng yếu cho các phát triển mang tính ứng dụng và phát triển. 

Thông tin nhóm tác giả:

1.TS. Đàm Quang Minh, Chủ tịch Khối Phổ thông Tập đoàn Giáo dục Equest.

2.ThS. Châu Dương Quang, Giảng viên Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.

3.TS. Đào Công Tuấn, Giảng viên Khoa Kinh tế và Quản lý, Trường Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận