HPV, tình dục và ung thư miệng

HIẾU TRUNG (THEO NATURE) 03/12/2013 21:12 GMT+7

TTCT - Báo chí Mỹ hồi giữa năm xôn xao vụ nam diễn viên nổi tiếng Michael Douglas mắc bệnh ung thư vòm họng do lây nhiễm virus HPV (Human papilloma virus) qua đường tình dục bằng miệng.

HPV gây ra căn bệnh ung thư này không làm ngạc nhiên nhưng lại là nguyên nhân của căn bệnh ung thư khác vừa được công bố ngày 20-11 trên tạp chí Nature.

Phóng to
Bác sĩ Gillison: “Ung thư dương tính HPV và ung thư âm tính với HPV là hai loại bệnh khác nhau”

Trên thực tế, HPV là nguyên nhân dẫn tới loại bệnh ung thư đầu và cổ mới khiến các nhà nghiên cứu đối mặt với vô số khó khăn trong việc tìm phương pháp thử nghiệm và điều trị. Năm 1998, bác sĩ chuyên khoa ung thư Maura Gillison thuộc ĐH Johns Hopkins ở Baltimore (bang Maryland, Mỹ) phát hiện bằng chứng cho thấy HPV có thể gây ra hàng chục nghìn ca ung thư vòm họng tại Mỹ mỗi năm.

Bác sĩ Gillison bắt đầu phân tích các mẫu xét nghiệm khối u tại Trung tâm ung thư đầu và cổ ĐH Johns Hopkins và phát hiện HPV có mặt trong 25% số mẫu.

Nữ bác sĩ này sử dụng nhiều phương pháp phân tích khác nhau để tránh nhầm lẫn. Cô theo dõi các khối u ở giai đoạn đầu, giữa và cuối thời kỳ phát triển và phát hiện HPV không chỉ có mặt ở đó, mà ADN của nó còn xâm nhập vào khối u, sản sinh ra hai loại protein gây ung thư. Điều đó cho thấy HPV chính là nguyên nhân gây bệnh ung thư.

Bác sĩ Gillison bắt tay vào dự án nghiên cứu, so sánh giữa bệnh nhân ung thư và các cá nhân khỏe mạnh.

Mối đe dọa mới

Năm 2000, bác sĩ Gillison, Shah và các đồng nghiệp công bố kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh ung thư miệng do HPV gây ra là một loại bệnh ung thư hoàn toàn khác biệt, bắt đầu từ sâu trong amiđan. ADN của HPV có mặt trong hạt nhân của tế bào ung thư và có ít đột biến gen protein p53 hơn bệnh ung thư miệng không liên quan đến HPV, ít liên quan đến rượu và thuốc lá. Và người mắc bệnh ung thư này có khả năng sống sót cao hơn.

Dù vậy, nhiều chuyên gia ung thư tỏ ý nghi ngờ. Họ cho rằng có thể HPV tình cờ lọt vào các mẫu xét nghiệm. Những người khác đặt vấn đề HPV chỉ là một yếu tố rủi ro chứ không phải nguyên nhân chính gây ung thư cổ và miệng.

Trong bảy năm sau đó, bác sĩ Gillison kiên nhẫn làm việc với 300 bệnh nhân và thu thập các mẫu xét nghiệm. Năm 2005, cô phân tích các dữ liệu cùng một nghiên cứu sinh. Trong vòng một giờ, kết quả phân tích trên máy vi tính cho thấy người mắc bệnh ung thư đầu hoặc cổ có khả năng đã bị nhiễm HPV trong miệng và cổ cao gấp 15 lần so với người bình thường.

Một số nghiên cứu khác cho thấy ADN của HPV kết hợp với hạt nhân của tế bào vòm họng và tạo ra các protein gây bệnh ung thư.

Năm 2007, bác sĩ Gillison công bố kết quả khẳng định mối liên quan giữa HPV và bệnh ung thư miệng. Kể từ đó, bác sĩ Gillison và một nhóm chuyên gia đã thu thập được một núi bằng chứng cho thấy HPV là thủ phạm dẫn tới hàng loạt ca mắc bệnh ung thư đầu và cổ, và số lượng trường hợp ung thư liên quan đến HPV đang gia tăng dữ dội.

Các nghiên cứu sau đó cho thấy ung thư miệng dương tính HPV và âm tính HPV là hai loại bệnh khác nhau. Người nhiễm ung thư dương tính HPV thường có nhiều bạn tình, hay quan hệ qua đường miệng và ít hút thuốc hoặc uống rượu. Người nhiễm ung thư âm tính HPV thường là người nghiện rượu và thuốc lá nặng.

Phóng to
HPV gây ra ung thư do quan hệ tình dục bằng miệng. Nhưng các nhà khoa học vẫn chưa trả lời được câu hỏi: vậy hôn nhau thì sao? - Ảnh: Thuận Thắng

Hoàn toàn khác biệt

“Đó là hai căn bệnh hoàn toàn khác nhau - bác sĩ Gillison nhấn mạnh - Bề ngoài chúng có thể trông giống nhau: một bệnh nhân đến khám vì cổ bị sưng và họng đau rát, nhưng nguyên nhân gây bệnh hoàn toàn khác”. Khi đó, mọi mối nghi ngờ đều tan biến. Giới y tế quốc tế chính thức thừa nhận công trình của bác sĩ Gillison. Cơ quan Nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC) thuộc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuyên bố có đủ bằng chứng cho thấy HPV gây một số bệnh ung thư miệng.

“Đây là phát hiện làm thay đổi mọi thứ” - chuyên gia Robert Ferris thuộc Viện ung thư ĐH Pittsburgh ở Pennsylvania khẳng định.

Các nghiên cứu sau đó cho thấy HPV gây bệnh ung thư vòm họng cũng giống như cách nó gây bệnh ung thư cổ tử cung. ADN của virút tích hợp với ADN người trong hạt nhân của tế bào khỏe mạnh rồi sản sinh ra hai protein có hại là E6 và E7. Chúng bám vào và vô hiệu hóa hai protein chống ung thư quan trọng là p53 và pRb.

Trong các ca ung thư dương tính với HPV, virút này vô hiệu hóa p53 nhưng không ảnh hưởng đến gen sản sinh protein này. Ngược lại trong các ca ung thư âm tính với HPV, gen này bị đột biến, sản sinh ra phiên bản không hiệu quả của protein này. Các chuyên gia cho biết có thể đó là lý do người nhiễm ung thư dương tính với HPV có cơ hội sống sót cao hơn.

Hiện không có phương pháp xét nghiệm hiệu quả nào đối với các trường hợp ung thư cổ và đầu do HPV gây ra. Các loại văcxin chống HPV mới chỉ được chỉ định cho người dưới 26 tuổi, dù nhiều bằng chứng cho thấy có thể ngăn chặn ung thư đầu và cổ ở người lớn mọi độ tuổi.

Và nếu HPV có thể xâm nhập màng nhầy của miệng và cổ họng thì nó còn có thể đi đến đâu nữa? Có một số dấu hiệu cho thấy HPV là một nguyên nhân dẫn tới các loại bệnh ung thư phổ biến khác như ung thư phổi.

Bác sĩ Gillison cho rằng các chuyên gia y tế cần nghiên cứu để hiểu rõ cách thức HPV gây ung thư và tìm biện pháp ngăn chặn, chữa trị hiệu quả nhất. Các trung tâm y tế trên toàn cầu ước tính HPV là thủ phạm của 45-90% số ca ung thư miệng.

Phóng to
Tỉ lệ ung thư đầu và cổ tăng lên ■ và còn tiếp tục tăng. Tỉ lệ trường hợp tăng lên do HPV ■. Trong lúc đó, tỉ lệ ung thư cổ tử cung ■ gây ra bởi HPV giảm xuống

Điều trị và những câu hỏi

Việc các bệnh nhân ung thư dương tính HPV có cơ hội sống cao hơn người bị ung thư âm tính HPV khiến các bác sĩ như Gillison và Ferris đặt vấn đề phải điều trị cho hai đối tượng này theo những cách khác nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay là kết hợp hóa trị và xạ trị. Tuy nhiên cách điều trị này có nhiều tác dụng phụ, bao gồm sự tổn hại tới vòm họng và thanh quản khiến người bệnh nói và nuốt khó hơn.

Với các bệnh nhân ung thư dương tính HPV trẻ hơn, khỏe hơn, các bác sĩ lo ngại hậu quả lâu dài của phương pháp điều trị này, và đang tìm những cách hóa trị mới ít độc hại hơn.

Các nhà nghiên cứu cũng đang tìm cách ngăn chặn căn bệnh này ngay từ đầu. Hơn 90% ca ung thư miệng dương tính với HPV xuất phát từ HPV-16, chủng virút chính gây bệnh ung thư cổ tử cung. Hai loại văcxin chống ung thư cổ tử cung là Gardasil của Hãng Merck và Cervarix của GlaxoSmithKline đều có khả năng ngăn chặn HPV-16. Do đó, trên lý thuyết các bác sĩ đã có vũ khí để chống ung thư miệng dương tính HPV.

Một nghiên cứu của Viện Ung thư quốc gia Mỹ (NCI) trên gần 6.000 phụ nữ cho thấy Cervarix đạt hiệu quả tới 93% trong việc ngăn chặn nguy cơ nhiễm HPV qua đường miệng.

Một rào cản đối với việc sử dụng văcxin này để chống ung thư miệng là chưa có cách chứng minh rõ ràng rằng nó sẽ có hiệu quả. Với ung thư cổ tử cung, các bác sĩ xét nghiệm tế bào từ cổ tử cung qua những cuộc xét nghiệm thông thường. Trong khi đó, ung thư miệng dương tính HPV xuất phát từ sâu trong amiđan nên các xét nghiệm trở nên khó khăn hơn.

“Trên lý thuyết, chúng tôi có thể phát hiện văcxin tiêu diệt HPV hiệu quả hay không trong amiđan nhưng sẽ phải cắt amiđan của toàn bộ người tham gia thử nghiệm văcxin. Đó là điều sẽ không bao giờ xảy ra” - bác sĩ Gillison cho biết.

Vẫn còn nhiều câu hỏi khác chưa được trả lời. Ví dụ, các chuyên gia chưa xác định được liệu lây nhiễm HPV qua đường miệng chỉ xuất phát từ quan hệ tình dục đường miệng hay còn do những hành vi khác như hôn nhau.

90% người nhiễm HPV qua đường miệng không bị ung thư miệng là điều các nhà khoa học vẫn chưa rõ tại sao. Họ cũng đang tìm hiểu liệu HPV có gây các loại ung thư khác không, ví dụ như ung thư thực quản hay ung thư phổi. Khoảng 15-20% bệnh nhân ung thư phổi nam giới và 50% nữ giới là những người không bao giờ hút thuốc.

Với ung thư đầu và miệng, bác sĩ Gillison lạc quan cho rằng những kiến thức mới về HPV, nguyên nhân gây bệnh sẽ giúp các chuyên gia y tế điều trị bệnh hiệu quả hơn và có thể ngăn chặn bệnh với một loại văcxin. “Không có nhiều loại bệnh ung thư mà chúng ta đã xác định được cả nguyên nhân gây bệnh và giải pháp điều trị như vậy” - bác sĩ Gillison nhấn mạnh.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận