Nobel Vật lý 2025: Tất định bất ngờ

GIÁP VĂN DƯƠNG 21/10/2025 14:07 GMT+7

TTCT - Giải Nobel vật lý 2025 đã được trao cho John Clarke, Michel H. Devoret và John M. Martinis vì "các khám phá về hiệu ứng xuyên hầm lượng tử vĩ mô và lượng tử hóa năng lượng ở trong mạch điện".

Nobel vật lý 2025 - Ảnh 1.

Ảnh: Reuters

Điều này đã mở ra cơ hội cơ hội phát triển các công nghệ lượng tử mới, như mật mã lượng tử, máy tính lượng tử và cảm biến lượng tử.

Kết quả dự báo trước

Trước kỳ trao giải Nobel năm nay, giới chuyên môn đã cho rằng giải vật lý gần như chắc chắn sẽ thuộc về lĩnh vực cơ học lượng tử. Lý do: năm nay là chẵn 100 năm cơ học lượng tử ra đời. Và khi xét đến các đóng góp của cơ học lượng tử đối với sự phát triển của khoa học và công nghệ trong suốt một thế kỷ qua, Liên hiệp quốc đã tuyên bố 2025 là "Năm quốc tế về khoa học và công nghệ lượng tử". Từ đầu năm 2025, khắp mọi nơi giới khoa học đã kỷ niệm và thực hiện nhiều hội thảo về cơ học lượng tử.

Tuy nhiên, đúng như bản chất bất định của cơ học lượng tử, giải thưởng năm nay vẫn ẩn chứa một yếu tố bất ngờ. Đó là, Ủy ban Nobel đã chọn vinh danh công trình nghiêng nặng về yếu tố kỹ thuật, thay vì những khám phá tri thức mới.

Điều này làm cho chính GS John Clarke, đồng chủ nhân của giải Nobel năm nay, cũng không khỏi bất ngờ. Ông cho biết: "Tôi hoàn toàn bất ngờ. Tôi không bao giờ nghĩ rằng nghiên cứu đó lại là cơ sở cho giải thưởng Nobel".

Vậy thành tựu chính của công trình được giải năm nay là gì?

Nhìn lại lịch sử

Chỉ ba năm sau khi cơ học lượng tử ra đời, năm 1928 George Gamow đã phát hiện ra rằng hiệu ứng xuyên hầm chính là lý do vì sao chúng ta có phân rã phóng xạ của hạt nhân.

Trong hạt nhân nguyên tử, bình thường thì lực hạt nhân sẽ giữ cho các hạt ổn định trong phạm vi của hạt nhân. Điều này tương tự như các hạt nhân bị giam hãm trong phạm vi của một bức tường cao và không thể thoát ra ngoài.

Nhưng trên thực tế, đôi khi ta thấy một mảnh nhỏ của hạt nhân thoát ra, làm hạt nhân biến đổi. Điều này tương tự việc một mảnh của hạt nhân đã chui xuyên qua bức tường cao theo một "đường hầm" nào đó. Người ta gọi đó là hiệu ứng xuyên hầm, một đặc trưng của cơ học lượng tử.

Một cách trực giác, ta có thể suy luận rằng nếu bức tường càng dày thì hiệu ứng xuyên hầm càng ít có cơ hội để xảy ra. Ngoài ra, do tính chất thống kê của cơ học lượng tử, ta không thể tiên đoán được khi nào thì hiện tượng này xảy ra.

Tuy nhiên, ta vẫn có thể mô tả hiện tượng này bằng khái niệm chu kỳ bán rã, tức khoảng thời gian để một nửa số hạt nhân trong mẫu bị phân rã. Hẳn nhiên, khi bức tường càng dày, chu kỳ bán rã sẽ càng dài.

Câu hỏi đặt ra là, hiệu ứng xuyên hầm này, hay tổng quát hơn là các đặc trưng của cơ học lượng tử, liệu có xuất hiện ở các hệ thống vĩ mô, tức các hệ nhiều hạt, hay lý tưởng hơn, là các hệ có kích thước đủ lớn để ta có thể quan sát và cầm nắm được?

Nobel vật lý 2025 - Ảnh 2.

Hiệu ứng xuyên hầm trong phóng xạ phân rã hạt nhân (phân rã alpha). Một mảnh nhỏ của hạt nhân nguyên tử đã xuyên qua bức tường và thoát ra bên ngoài nhờ hiệu ứng xuyên hầm lượng tử. Ảnh: Johan Jarnestad/Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển.

Xuyên hầm lượng tử vĩ mô

Năm 1962, Brian Josephson, khi đó còn là một sinh viên cao học 22 tuổi, đã thực hiện một tính toán lý thuyết và thấy rằng: nếu chèn một miếng cách điện vào giữa hai miếng siêu dẫn thì hiệu ứng xuyên hầm sẽ xảy ra. Khi đó, ta sẽ có xuyên hầm lượng tử ở cấp vĩ mô.

Việc này xảy ra như thế nào? Trong vật liệu thông thường, các hạt điện tử di chuyển tự do. Mỗi điện tử độc lập với các điện tử khác, chúng thích ở riêng chứ không bao giờ chịu "chung chạ" với những hạt giống hệt mình. Đó chính là nội dung của nguyên lý loại trừ Pauli.

Nhưng trong một số vật liệu, khi làm lạnh đến một nhiệt độ nào đó, các điện tử lại bắt cặp với nhau tạo thành các cặp Cooper (gọi theo tên của người đã khám phá ra cơ chế bắt cặp này) để tạo ra một trạng thái đặc biệt giúp chúng có thể di chuyển mà không gặp cản trở về điện nào. Đó chính là trạng thái siêu dẫn của vật liệu. Khi đó, mỗi cặp Cooper được mô tả bởi cùng một hàm sóng, và ứng xử như một hạt duy nhất.

Nobel vật lý 2025 - Ảnh 3.

Khi có hai vật liệu siêu dẫn ở cạnh nhau và cách nhau bởi một lớp cách điện, được minh họa bằng khoảng trống trong hình thì các cặp Cooper có thể xuyên hầm qua khoảng trống đó và hoạt động như thể chúng là một hạt duy nhất lấp đầy toàn bộ mạch điện. Cơ học lượng tử mô tả trạng thái tập thể này bằng một hàm sóng chung. Các tính chất của hàm sóng này đóng vai trò chủ đạo trong thực nghiệm của các nhà khoa học đoạt giải Nobel năm nay. Ảnh: Johan Jarnestad/Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển

Tính toán của Brian Josephson cho thấy khi ta chèn một miếng cách điện vào giữa hai miếng siêu dẫn thì các cặp Cooper sẽ xuyên hầm qua miếng cách điện để chui sang miếng siêu dẫn. Toàn bộ các cặp Cooper khi đó sẽ hòa vào nhau và hành xử như một hạt duy nhất, được mô tả bởi cùng một hàm sóng.

Thực nghiệm sau đó thực hiện bởi nhóm Phillip W. Anderson ở Bell Labs đã chứng minh tính toán của Brian Josephson là đúng. Josephson đã được trao giải Nobel vật lý năm 1973 vì khám phá này.

Các nhà khoa học được giải năm nay đã làm gì?

Các nghiên cứu được vinh danh trong giải Nobel vật lý năm nay bắt đầu với John Clarke, giáo sư Đại học California, Berkeley (Mỹ), nơi ông chuyển đến từ năm 1968 sau khi khi tốt nghiệp tiến sĩ Đại học Cambridge. Tại UC Berkeley, Clarke đã xây dựng nhóm nghiên cứu của mình, tập trung vào các thực nghiệm liên quan đến chất siêu dẫn và chuyển tiếp Josephson.

Năm 1982, Michel Devoret gia nhập nhóm nghiên cứu của John Clarke với tư cách là nghiên cứu viên sau tiến sĩ, và John Martinis cũng tham gia với tư cách nghiên cứu sinh. Năm 1985 họ công bố kết quả nghiên cứu về hiệu ứng xuyên hầm lượng tử vĩ mô ở lớp chuyển tiếp Josephson. Đó chính là lý do vì sao họ cùng nhau được trao giải Nobel năm nay.

Công tâm mà nói, nghiên cứu của nhóm Clarke không tập trung vào những vấn đề mới có tính cách nền tảng, vì hiệu ứng xuyên hầm qua lớp chuyển tiếp Josephson đã được nghiên cứu và thực nghiệm thành công trước đó rồi. Thay vào đó, nhóm cải tiến thực nghiệm để có được thiết bị đo tinh nhạy và ổn định hơn, nhờ đó đo lường được chính xác các tính chất của mạch điện.

Ngoài ra, các hệ lượng tử luôn thể hiện hiện tượng lượng tử hóa các mức năng lượng. Điều đó có nghĩa là năng lượng không phải là một dải liên tục, mà được chia thành các gói có giá trị xác định. Mỗi gói là một đơn vị. Năng lượng của hệ không thể có giá trị bất kỳ, mà là một bộ số của năng lượng đơn vị. Điều này cũng giống như tiền tệ vậy. Mỗi một đồng là một "lượng tử" tiền, nên ta chỉ có một số tiền bao nhiêu đồng đó thôi, với bước nhảy tối thiểu là một đồng.

Nobel vật lý 2025 - Ảnh 4.

Một hệ cơ học lượng tử chỉ có thể hấp thụ hoặc phát ra một lượng năng lượng nhất định. Khi đó, hệ thống được lượng tử hóa về mặt năng lượng. Hiệu ứng đường hầm xảy ra dễ dàng hơn khi hệ đang ở mức năng lượng cao hơn so với mức năng lượng thấp hơn, vì vậy, về mặt thống kê, một hệ thống có nhiều năng lượng hơn sẽ bị giam cầm trong thời gian ngắn hơn so với hệ thống có ít năng lượng hơn. Ảnh: Johan Jarnestad/Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển.

Để khảo sát hiện tượng lượng tử hóa năng lượng của hệ, nhóm Clarke đã đưa một dòng điện yếu vào lớp chuyển tiếp Josephson và đo điện áp. Ban đầu, điện áp trên lớp chuyển tiếp Josephson bằng 0 đúng như dự kiến. 

Điều này là do hàm sóng của hệ thống đang ở trong một trạng thái không cho phép điện áp phát sinh. Sau đó, họ nghiên cứu thời gian cần thiết để hệ thống thoát khỏi trạng thái này và gây ra điện áp trên lớp chuyển tiếp.

Vì cơ học lượng tử mang trong mình yếu tố xác suất, nên nhóm đã phải thực hiện nhiều phép đo và biểu diễn kết quả dưới dạng đồ thị, từ đó có thể tính được khoảng thời gian của trạng thái điện áp bằng 0. Điều này tương tự như cách các phép đo chu kỳ bán rã của hạt nhân nguyên tử dựa trên xác suất của trường hợp phóng xạ phân rã hạt nhân đã nói ở trên.

Nhóm nghiên cứu của Clarke đã thành công trong công việc trên tiến tới hiểu rõ được tính chất của mạch điện đã củng cố thêm cơ sở và góp phần tạo ra các thiết bị có sử dụng hiệu ứng lượng tử vĩ mô tinh nhạy và ổn định hơn. 

Một trong số các thiết bị đó có thể kể đến là máy tính lượng tử mà chính Martinis đã thực hiện trong giai đoạn 2014-2020 khi ông là trưởng nhóm nghiên cứu về máy tính lượng tử của Google. 

Nobel ngoại truyện

Ít ai biết rằng TS Nguyễn Trọng Hiền, nhà khoa học đang làm việc tại NASA, lại là học trò của GS John Clarke và biết rất rõ quá trình thực hiện các nghiên cứu mang đến giải Nobel vật lý năm nay.

Trong một trao đổi nhóm, TS Nguyễn Trọng Hiền cho biết: "Tôi cũng hơi ngạc nhiên về Nobel vật lý năm nay. Giáo sư John Clarke cũng đã rất ngạc nhiên… Giáo sư John Clarke là thầy cũ của tôi. Thầy là người cẩn trọng trong công việc, từ tốn trong lời ăn tiếng nói".

Về công trình được giải Nobel năm nay, TS Nguyễn Trọng Hiền giải thích thêm:

"Clarke phát triển SQUID (Thiết bị giao thoa lượng tử siêu dẫn), vốn dĩ là một ứng dụng của lớp chuyển tiếp Josephson và đo đạc chính xác lượng tử từ thông qua đó. Nhưng Clarke không phải là người làm ra SQUID.

Đo đạc chính xác từ thông lượng tử cũng đã có người làm lâu rồi, bằng cách dùng lớp chuyển tiếp Josephson. Điều Clarke và nhóm của ông làm được ở đây là "phát triển" bộ phận này trở nên tinh nhạy, ổn định và có thể dùng được trong những ứng dụng khác.

Vấn đề xuyên hầm ta biết từ thời kỳ đầu của vật lý lượng tử, qua phân rã phóng xạ. Còn xuyên hầm của SQUID thì đã được Josephson tiên đoán qua lý thuyết. Đây là các cặp đôi Cooper xuyên hầm. Vấn đề then chốt ở đây là lúc đó người ta không nắm bắt hay điều khiển được quá trình xuyên hầm của những cặp đôi Cooper này, cho tới khi Clarke thực hiện được chuyện này.

Clarke điều khiển quá trình xuyên hầm của những cặp Cooper như điều khiển pha, dòng điện, năng lượng, hay số lượng cặp đôi Cooper... Và đây là đóng góp then chốt của nhóm Clarke. Bằng cách điều khiển những thông số này, qua cách thay đổi hiệu điện thế trong mạch điện, nhóm Clarke đã có thể tạo được các trạng thái vướng mắc lượng tử có độ bền tương đối cao. Và vì thế người có thể làm qubits, dùng cho máy tính lượng tử, chẳng hạn".

Ngoài ra, về Josephson cũng có nhiều chuyện thú vị: "Cái này Josephson phát hiện ra dựa trên lý thuyết lúc ông còn là sinh viên cao học. Josephson và John Bardeen - cha đẻ của bán dẫn và siêu dẫn, người duy nhất đoạt hai giải Nobel trong cùng một lĩnh vực, đó là Nobel vật lý năm 1956 và 1972 - có tranh luận với nhau.

Josephson cho rằng nếu kẹp một miếng vật liệu cách điện giữa hai miếng siêu dẫn thì dòng điện siêu dẫn sẽ xuyên hầm qua miếng cách điện và do đó sẽ có một hiệu điện thế xuất hiện băng ngang miếng cách điện. John Bardeen bảo Josephson nói… linh tinh.

Josephson lúc bấy giờ còn là một sinh viên cao học ở Cambridge. Josephson lúc đó theo học lớp vật lý chất rắn của Phillip W. Anderson, lúc ấy đang là giáo sư thỉnh giảng ở Cambridge. Anderson kể lại, tôi cũng không hiểu cậu Josephson nói gì nhưng tôi nghĩ Josephson nói thì chắc là đúng. Anderson - một con người đầu đội trời chân đạp đất - mà nói như thế về cậu học trò trong lớp, có lẽ một phần vì Josephson hay "sửa sai" Anderson khi ông đứng lớp.

Anderson còn làm hơn thế. Khi trở về Bell Labs, ông cùng với đồng nghiệp thực hiện thí nghiệm - thực hiện cái mà sau này người ta gọi là chuyển tiếp Josephson - và chứng tỏ là có hiệu điện thế băng ngang chất cách điện như Josephson đã tiên đoán thật. Bardeen đã phải rút lại lời phê bình của mình.

Josephson sau này được Nobel vật lý (1973). Đáng lý ra Anderson cũng phải được giải cùng Josephson, vì ông - một nhà lý thuyết thực thụ - đã làm thực nghiệm thành công về chuyện này.

Đây là một trong hai giải Nobel người ta đã bỏ rơi Anderson. Giải kia là cơ chế Anderson-Higgs. Anderson - người được giải Nobel vật lý năm 1977 - đã khá cay đắng về chuyện này".

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận