Tình trạng bất định trong sự nghiệp khoa học: Sao trông giáo sư âu lo thế?

NGUYỄN VĂN TUẤN 18/12/2019 00:12 GMT+7

TTCT - Trong cái nhìn của công chúng, những nhà khoa học đạt tới vị trí giáo sư là những người nhàn hạ ngồi trong tháp ngà, thỉnh thoảng đưa ra những ý kiến chẳng ăn nhập gì với thực tế. Nhưng trong thực tế ở các nước phương Tây, hầu hết những giáo sư đều rất vất vả và sự nghiệp của họ rất ư là chông chênh, bất định.

 
Thông thường, công chúng khi nhìn vào giới khoa học thường hình dung đó là một nhóm người khá lạ thường. Họ có vẻ lập dị, có thể bỏ cả đời để theo đuổi một vấn đề rất nhỏ nào đó chẳng có liên quan gì đến thực tế. Họ cũng viết bài báo, nhưng chẳng mấy người hiểu họ viết gì vì những từ ngữ có vẻ bí hiểm, xa rời thực tế. Thần thái thì lúc nào cũng có vẻ đăm chiêu suy nghĩ về một vấn đề nào đó mà người đối diện không rõ. Ngay cả cách họ ăn mặc trong labo cũng khác thường, chẳng khác gì thầy cúng sắp làm phận sự. Tóm lại, trong cái nhìn của công chúng, giới khoa học là những người bất bình thường. 

Chẳng những bất thường mà còn có phần ... vô dụng. Vô dụng vì họ nói năng bằng những chữ mang tính không chắc chắn (như ‘có thể’, ‘có lẽ’, ‘khả năng’). Họ nghiên cứu thì lệ thuộc vào tiền thuế của người dân, nhưng người dân - qua cái nhìn kinh tế - thì chẳng hưởng lợi ích bao nhiêu từ họ

Tuy nhiên, thần thái đăm chiêu và tính cách hơi bất thường đó có thể hiểu được, nếu công chúng chịu khó đi vào thế giới của hoạt động khoa học và lắng nghe tâm tư của họ. Bài này giúp bạn đọc “xâm nhập”' vào thế giới riêng tư đó để giúp công chúng và giới khoa học cảm thông nhau hơn. 

Nỗi niềm biết tỏ cùng ai

Ít ai biết rằng đằng sau những người làm nghiên cứu khoa học là vô số “nỗi niềm biết tỏ cùng ai”. Kể ra những nỗi niềm này thì cần đến một cuốn sách, nhưng ngắn gọn và trên hết là nhà khoa học thường phải đối diện với một tương lai bất định. Hôm nay mình còn tồn tại, được mời mọc đi đây đi đó, được bay xa và bay cao; ngày mai sẽ ra sao lại rất khó đoán được, vì tất cả phụ thuộc vào nguồn tài trợ. Mà, tài trợ thì càng không thể đoán trước được. Cái tương lai bất định và nỗi ám ảnh chông chênh đó đeo đuổi nhà khoa học từ lúc mới bước chân vào sự nghiệp nghiên cứu cho đến những ngày cuối sự nghiệp, thậm chí cuối đời.

Sau khi xong chương trình tiến sĩ, đa số nghiên cứu sinh phải tìm một vị trí hậu tiến sĩ (postdoc). Theo thống kê của Royal Society (Viện hàn lâm khoa học Anh), chỉ có 30% người tốt nghiệp tiến sĩ tìm được một vị trí hậu tiến sĩ. Và, chỉ có 10% hậu tiến sĩ còn tồn tại trong hệ thống nghiên cứu khoa học. Hơn thế nữa, chỉ có 3,5% trong số tốt nghiệp tiến sĩ tìm được việc làm nghiên cứu khoa học trong các đại học. 

Tìm được vị trí hậu tiến sĩ không dễ chút nào, vì số vị trí thì ít mà số ứng viên thì nhiều. Các labo có tiếng chỉ tuyển nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ dựa vào công trình khoa học đã công bố. Không phải dựa vào là số lượng bài báo, mà là phẩm chất khoa học của bài báo và tập san. Một hay 2 bài trên các tập san lừng danh như Science và Nature vẫn chưa đủ. Đối với đa số đại học, có bài được xếp vào nhóm được trích dẫn cao (highly cited) cũng chưa đủ để đảm bảo một vị trí hậu tiến sĩ. Còn các labo khác thì ít ai chịu đọc lí lịch khoa học của ứng viên nếu không có ít nhất 5 bài trên tập san top trong chuyên ngành. Ngay cả tìm được một vị trí thì thời gian cũng chỉ 5 năm là tối đa, chớ không có cố định. 

Từ hậu tiến sĩ đến chức vụ giáo sư đại học cũng là một con đường dài và gian nan. Chỉ có 0,45% (tức khoảng 5 người trên 1000) sau này trở thành giáo sư thực thụ. Số người thành giáo sư thực thụ và có labo độc lập lại còn hiếm hơn nữa. Thời gian từ khi tốt nghiệp tiến sĩ đến khi được bổ nhiệm giáo sư trung bình là 20 năm. Nhưng dù đã đạt được chức vụ giáo sư, ở rất nhiều đại học và viện nghiên cứu họ cũng không “an toàn”. 

Chức vụ giáo sư thường có nhiệm kì chỉ 5 năm. Còn các nhà khoa học trong các viện nghiên cứu thì thời gian hợp đồng chỉ 1 năm. Sau 5 năm (hay 1 năm), họ phải chứng minh đã làm “được việc” để được tái bổ nhiệm. Không ít giáo sư không được tái bổ nhiệm, và tương lai thất nghiệp (hay nghỉ hưu sớm) là một viễn cảnh rất thật. Đó chính là lí do tại sao rất nhiều giáo sư thường có vẻ lo âu và … bất bình thường. 
 
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
Tình trạng bất định trong khoa học ngày nay bắt nguồn từ vấn đề tài trợ cho nghiên cứu khoa học (thuật ngữ khoa học gọi là 'grant') mà tôi cần giải thích thêm. Nghiên cứu khoa học bắt đầu từ grant. Có grant thì mới có tiền. Có tiền thì mới mướn nhân viên cộng sự. Có nhân viên cộng sự thì mới thực hiện được nghiên cứu. Có nghiên cứu thì mới có bài báo khoa học. Có bài báo khoa học thì mới được hội nghị mời diễn thuyết. Có bài báo khoa học và có diễn giảng thì người ta mới tài trợ grant cho nghiên cứu. Do đó, vòng tròn nghiên cứu khoa học bắt đầu bằng cái grant, nhưng kết thúc cũng là ... grant!
 
Có nhiều loại grant: tài trợ cho một công trình/ý tưởng nghiên cứu; tài trợ cho một chương trình nghiên cứu; tài trợ cho cơ sở vật chất; tài trợ cho cá nhân nhà khoa học (fellowship), v.v.
Fellowship là quan trọng nhất, vì qua đó mà nhà khoa học có lương bổng để tồn tại [thường là] 5 năm. Khi nhà khoa học tồn tại thì mới xin các grant khác, hay theo cách nói của người Việt là an cư rồi mới lạc nghiệp.
 
Nhưng thành công trong grant  thì chẳng những rất cạnh tranh (trong số 2000 người đệ đơn chỉ có chừng 100 người được) mà nhiều khi kết quả gần như là một trò chơi xổ số. Ngay cả những khôi nguyên Nobel cũng không thể đoán được mình sẽ có grant trong năm tới hay không.
Nhiều nhà khoa học cấp cao mỗi năm phải bỏ ra rất nhiều thì giờ chỉ để viết grant. Có người nói rằng gần 70% thời gian của họ là chỉ để nghĩ ra ý tưởng mới và viết grant xin tài trợ. Nhưng tính trung bình, tôi nghĩ con số là khoảng 40-50%.
 
Do đó, trái với suy nghĩ của công chúng là giới khoa học chỉ ngồi trên tháp ngà suy nghĩ chuyện đâu đâu, trong thực tế họ bỏ ra rất nhiều thì giờ để viết. Không phải chỉ viết bài báo khoa học, mà phần lớn là viết grant xin tài trợ! Viết rất nhiều, nhưng tài trợ thì chẳng bao nhiêu. Như một bài hát là “Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu”.
 
Tiền khủng phải chi cho xuất bản và hội nghị
Ngay cả khi có may mắn nhận tài trợ thì lại phải chi cho rất nhiều khoản chi khác trong công bố khoa học và hội nghị mà người ngoài không thấy. Giáo sư Kathryn Rudy (nhà sử học Canada) liệt kê 7 khoản chi cho công tác phí, chi phí mua bản quyền bài báo hay hình, chi phí công bố sách, chi phí công bố bài báo khoa học, v.v.
 
Trong các khoản chi đó, tôi chú ý đến chi cho xuất bản sách. Bà viết rằng khi nộp bản thảo cuốn sách cho nhà xuất bản, họ đòi ấn phí 36.000 USD trước khi gửi ra ngoài để bình duyệt. Trong khoa học xã hội, xuất bản sách là một trong những tiêu chuẩn để được đề bạt chức vụ giáo sư, mà xuất bản sách với cái giá này thì quả thật là khó khăn cho họ.
 
Đối với khoa học thực nghiệm như chúng tôi thì xuất bản sách không quan trọng, nhưng chúng tôi phải chi nhiều khoản khác như hội nghị, xuất bản bài báo, lưu trữ dữ liệu. Dự hội nghị rất quan trọng, vì đó là hình thức duy trì sự hiện diện và cái mà giới đại học thường nói là ‘visibility’. Duy trì visibility cho labo nghiên cứu và cho cả viện/trường trên trường quốc tế giúp nâng cao hạng của đại học; do đó, các giáo sư thường phải có mặt trong các hội nghị quan trọng trong chuyên ngành. 
 
Mỗi năm, tôi phải đi dự một số hội nghị quan trọng, thường là 3 hội nghị ở Âu châu, Mĩ, và Úc. Chi phí hội nghị ngày càng đắt đỏ: hơn 20 năm trước, chi phí ghi danh hội nghị ASBMR (khoảng 5000 người) chỉ chừng 150 USD, nhưng ngày nay là 600 USD.
 
Đi dự hội nghị là phải mua vé máy bay, và một chuyến đi Mĩ giá trung bình là 5000 USD. Ngoài vé máy bay, còn phải đặt phòng khách sạn, và mỗi hội nghị 5 ngày thì tiền phòng cũng xấp xỉ 1000 USD. Như vậy, chỉ 1 hội nghị thì chi phí cũng cỡ 7000 USD. Hội nghị Âu châu cũng có chi phí cỡ đó, nhưng hội nghị ở Úc thì chỉ chừng 2000 USD. 
 
Nhưng đó là chi phí cho 1 cá nhân, chúng tôi còn phải lo chi trả cho thành viên của nhóm. Nếu nhóm có 3 người đi thì chi phí xấp xỉ 15,000 USD cho nước ngoài cộng với 5000 USD cho hội nghị địa phương. Tính trung bình, mỗi năm labo chúng tôi chi gần 20,000 USD chỉ cho hội nghị!
 
Ngoài chi phí hội nghị, giới khoa học còn phải trả ấn phí xuất bản. Làm nghiên cứu khoa học là phải công bố kết quả nghiên cứu. Ngày nay, công bố khoa học cũng phải trả ấn phí. Nếu tập san chuyên ngành do hiệp hội chuyên môn quản lí thì cái giá là khoảng 1000 USD mỗi bài. Nếu công bố trên các tập san Mở (Open Access) thì có thể dao động từ 1500-5000 USD. Tập san danh tiếng (như Nature, Cell) thì ấn phí (trên 5000 USD một bài) càng cao.  Mỗi năm, tính trung bình labo tôi chi ra khoảng 10.000 USD cho xuất bản phí. Tất cả những chi phí đó đều lấy từ các grant tài trợ cho nghiên cứu. Do đó, một lần nữa, vai trò của grant rất ư quan trọng.
 
Nhà khoa học = nhà ngoại giao + quản lí
Mỗi labo nghiên cứu khoa học ngày nay có thể xem như là một doanh nghiệp nhỏ. Trong cái doanh nghiệp đó, giám đốc là giáo sư hay người đứng đầu labo; vận hành khoa học và thí nghiệm là các hậu tiến sĩ; “công nhân” là các nghiên cứu sinh. Tất cả tiền điện, nước, in ấn, vệ sinh…labo đều phải trả tiền cho viện nghiên cứu hay trường đại học. Một labo nho nhỏ (5 người) thì chi phí này có thể lên đến 20.000 USD. Tất cả các tiền này cũng phải trích từ grant được tài trợ. 
 
Do đó, nhà khoa học ngày nay không chỉ đơn thuần làm nghiên cứu khoa học, mà còn phải ... hơn thế nữa. Cái 'hơn thế nữa' ở đây bao gồm khả năng quản lí và khả năng ngoại giao. Quản lí cơ sở vật chất, quản lí nhân sự, quản lí ngân sách, quản lí các mối liên hệ là những kĩ năng không thể thiếu được của một nhà khoa học. Quản lí tài chánh càng ngày càng trở thành một kĩ năng vô cùng quan trọng vì nếu làm không tốt thì rất dễ bị ... sạt nghiệp. Kĩ năng ngoại giao vô cùng quan trọng, vì nói cho cùng nhà khoa học phải sống trong ‘bộ lạc’, và làm quen với các nhân vật quan trọng trong bộ lạc là kĩ năng sống còn. 
 
Cạnh tranh dữ dội
Hầu hết các nhà khoa học chọn nghiệp nghiên cứu đều đối diện với một tương lai bất định suốt đời. Tình trạng bất định xuất phát từ nguồn tài trợ cho khoa học càng hiếm và cạnh tranh rất cao. Dĩ nhiên, những người có lương từ các đại học thì tình trạng bất định không nghiêm trọng (vì họ có lương ổn định) như các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu độc lập. Nhưng ngay cả các giáo sư đại học cũng thích có fellowship vì có tài trợ đó họ không lệ thuộc vào trường đại học mà còn có ‘prestige’ trong chuyên ngành. Fellowship là một dạng của grant. 

Để biết tính cạnh tranh như thế nào, có thể xem qua vài con số về công bố khoa học trong đợt tài trợ fellowship vừa qua của Hội đồng Quốc gia về Y tế và Y khoa Úc (NHMRC). Có 2 loại fellowships chính: loại dành cho các nhà khoa học sau tiến sĩ 10 năm (gọi là EL) và loại dành cho các nhà khoa học cấp phó giáo sư trở lên (tức đã ‘thành danh’).

Để có một fellowship loại EL ứng viên phải có ít nhất 30 bài báo khoa học trong lí lịch và những bài báo này phải có tác động ít nhất là 2 lần so với trung bình. Ứng viên loại ‘thành danh’ phải có ít nhất là 100 bài báo khoa học, và tác động nghiên cứu phải cao ít nhất là 3 lần trên trung bình.

Ba phần tư ứng viên rớt trong giai đoạn đầu tuyển chọn; chỉ có 25% vào vòng ‘chung kết’, và chỉ có 11% trong số vào vòng chung kết đạt được fellowship. Do đó, cường độ cạnh tranh để có grant dạng fellowship rất cao, và giới khoa học gốc Á châu hay nữ thường bị thiệt thòi. 

Đấy là những lý do khiến giới khoa học cấp giáo sư nom có vẻ ‘bất thường’, mà lí do đơn giản và gần nhất là họ phải lo đến tương lai mất việc do không có grant - tài trợ. Nhưng bài viết cũng muốn nhắn đến các bạn đang theo học tiến sĩ hay đang làm nghiên cứu hậu tiến sĩ nên lưu tâm đến tình trạng bất định trong sự nghiệp khoa học. 
 
Đã chọn sự nghiệp nghiên cứu thì phải biết trước tình trạng này và chuẩn bị cho sự chông chênh trước mặt. Nói như vậy không có nghĩa là không chọn sự nghiệp nghiên cứu, vì chọn lựa là quyết định cá nhân. Ai cũng muốn thành công trong sự nghiệp, nhưng thành công chỉ đến với những người chọn con đường khó khăn và chông gai, chớ không bao giờ đến với những người lựa chọn con đường trơn tru.
Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận