5 đề nghị cải cách trong việc xét duyệt chức danh giáo sư

NGUYỄN VĂN TUẤN 04/11/2020 07:11 GMT+7

Những quy định trong việc xét duyệt công nhận chức danh giáo sư hiện nay còn nhiều khiếm khuyết, dễ dẫn đến sai lầm trong đánh giá, gián tiếp khuyến khích nghiên cứu chất lượng thấp, dẫn đến sự bất công giữa các ứng viên... -

 

 

Các đề nghị trong bài này nhắm khắc phục những thiếu sót đó và giúp việc xét duyệt chức danh giáo sư gần hơn với tiêu chuẩn ở các nước tiên tiến.

Đề nghị 1: xác định tập san chánh thống

Vấn đề hiện nay là sự lẫn lộn giữa tập san “dỏm” (còn gọi là tập san “săn mồi” - predatory journals) và tập san chánh thống. 

Tập san dỏm được định nghĩa hay hiểu là những trạm xuất bản giả danh tập san khoa học chuyên xuất bản những bài báo lừa bịp để lấy tiền. Các tập san này không thuộc bất cứ hiệp hội khoa học nào, không có cơ chế bình duyệt nghiêm chỉnh vì họ không quan tâm đến khoa học, mà chỉ là lợi nhuận. 

Trên thế giới có hơn 12.000 tập san “săn mồi”, mỗi năm công bố hơn 400.000 bài báo với thị trường hơn 74 triệu USD (số liệu năm 2014).

Sau những lùm xùm tranh cãi, Hội đồng chức danh giáo sư ngành y đã quyết định lấy các tập san trong danh mục Web of Science (WoS), Scopus, Pubmed và ESCI (Emerging Scources Citation Index) là “tập san uy tín”. Các ứng viên có bài trên các tập san trong các danh mục này sẽ được xét công nhận chức danh giáo sư.

Nhưng quyết định này có thể dẫn đến sai lầm trong việc xét duyệt công nhận chức danh giáo sư với những lý do sau:

Các danh mục như Scopus, Pubmed và ESCI đều có những tập san dỏm. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy số tập san dỏm trong danh mục Scopus và Pubmed lên đến hàng trăm, ESCI cũng có hàng chục tập san dỏm. Có ước tính cho rằng tỉ lệ tập san dỏm trong danh mục ESCI là 0,61%, Scopus là 0,25%, WoS thì thấp nhất (0,1%). Chỉ riêng ngành thần kinh học có hơn 10% các tập san trong Pubmed được giới chuyên gia đánh giá là dỏm. Do đó, dựa vào các danh mục này vô điều kiện dễ dẫn đến sai lầm.

Tôi đề nghị một cách phân loại tập san chánh thống và phi chánh thống. Tập san chánh thống là những tập san:

• Do các hiệp hội khoa học chánh thống làm chủ quản và xuất bản bởi các nhà xuất bản học thuật; hoặc/và

• Do các nhà xuất bản học thuật (như Elsevier, Springer-Nature, Wiley, Sage, Taylor & Francis, Routledge, Oxford, Cambridge, Harvard, MIT, Academic Press...) lập ra nhưng được công nhận bởi cộng đồng khoa học.

Tiêu biểu cho nhóm tập san thứ 1 là JAMA (thuộc Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ), BMJ (Hiệp hội Y khoa Anh), New England Journal of Medicine (Hiệp hội Y khoa bang Massachusetts), JCEM (Hiệp hội Nội tiết Hoa Kỳ)… 

Nhóm 2 bao gồm các tập san thuộc nhóm Lancet, Nature.

Cách phân nhóm như thế đã tự động loại bỏ các tập san dỏm, cũng không cần có trong Scopus hay WoS như là một tiêu chuẩn. 

Một tập san mới thuộc một hiệp hội khoa học có thể chưa có trong Scopus hay Clarivate nhưng là tập san chánh thống, ví dụ Journal of Endocrine Society, Osteoporosis and Sarcopenia, JBMR Plus… tuy chưa có trong danh mục Clariavate hay Scopus, nhưng người trong chuyên ngành luôn nhìn nhận đó là tập san chánh thống.

Đề nghị 2: xem xét uy tín của tập san khoa học

Trên thế giới, có hơn 50.000 tập san khoa học tạm xem là “chánh thống”, nằm trong 2 danh mục chánh là WoS (28.560 tập san) và Scopus (37.535 tập san). Một số tập san nằm trong cả 2 danh mục, riêng ngành y tỉ lệ trùng hợp giữa hai danh mục là 46%. 

Nhìn chung, danh mục Clarivate mang tính chọn lọc hơn là Scopus, vì Scopus có xu hướng “thu nhận” những tập san có phẩm chất thấp và cả tập san dỏm.

Điều đó có nghĩa là các tập san khoa học không có uy tín như nhau. Chẳng hạn một tập san chuyên khoa nội tiết (Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism) và tập san New England Journal of Medicine tuy thuộc nhóm Q1 (những tập san uy tín nhất) nhưng uy tín và chất lượng khoa học thì rất khác nhau. 

Tập san Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism có tỉ lệ từ chối khoảng 20%, nhưng New England Journal of Medicine có tỉ lệ từ chối lên đến 90%. Do đó, cũng là công bố trên “tập san quốc tế” nhưng không thể xem giá trị khoa học của bài báo như nhau.

Vấn đề hiện nay là Hội đồng chức danh giáo sư xem công bố trên các tập san “quốc tế” có điểm tương đương nhau! Thậm chí một bài báo trên một chuyên san trong nước (ví dụ tạp chí Y Học Thực Hành) lại có điểm y chang một bài báo trên New England Journal of Medicine Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism

Theo tôi, đó là một sự vô lý. Sự vô lý này không chỉ làm sai lệch cách đánh giá ứng viên cho chức danh giáo sư, mà còn khuyến khích làm nghiên cứu có chất lượng thấp. Người ta sẽ nghĩ cần gì phải gian khổ làm nghiên cứu đẳng cấp cỡ đăng được trên New England Journal of Medicine, chỉ cần làm nghiên cứu phù hợp với tập san trong nước là cũng có đủ điểm.

Có thể giải quyết sự vô lý này bằng cách tạm thời lấy hệ số ảnh hưởng (impact factor) và chỉ số H để xếp hạng tập san cho mỗi chuyên ngành. Dù biết rằng hệ số ảnh hưởng có khiếm khuyết (thậm chí bị phản đối), nhưng trong thực tế hầu hết các đại học và hội đồng đề bạt chức vụ khoa bảng đều lấy hệ số ảnh hưởng làm thước đo để đánh giá uy tín của một tập san. 

Ứng viên có bài trên các tập san hàng đầu trong mỗi chuyên ngành phải được đánh giá cao và ưu tiên hơn ứng viên công bố nhiều bài trên các tập san “làng nhàng”.

Đề nghị 3: phải phân biệt thể loại bài báo khoa học

Một vấn đề khác cần cải cách là khái niệm “bài báo khoa học”. Hiện nay, tiêu chuẩn để công nhận chức danh giáo sư là 5 bài, còn phó giáo sư là 3 bài. Nhưng quy định không nói bài báo đó là gì. Đó là một thiếu sót nghiêm trọng.

Trong thực tế có nhiều loại bài báo khoa học và giá trị của các bài báo cũng không tương đương nhau:

• Bài nguyên gốc (original contribution) là bài từ nghiên cứu nghiêm chỉnh, có giả thuyết, có phương pháp phân tích, dữ liệu là dữ liệu gốc lần đầu được công bố.

• Bài case report (báo cáo ca lâm sàng) không phải là bài báo khoa học nguyên gốc vì chẳng có giả thuyết hay mục tiêu gì cả, mà chỉ là mô tả.

• Bài tổng quan (review) tức một dạng “đọc báo giùm bạn”, điểm qua y văn từ những bài công bố trước đây. Đây không phải là nghiên cứu đúng nghĩa.

• Bình luận, tức những Letter to the Editor, Commentary, Debate, Editorial. Đây là những ý kiến cá nhân, không thể xem là nghiên cứu.

Hiện nay, bài báo loại nào cũng được xem là “công bố quốc tế” và có giá trị như nhau! Ứng viên có 10 bài case report lại được xem là hơn người có 3 bài nguyên thủy! 

Đó cũng là một sự vô lý vì trung bình hóa khoa học. Để xét duyệt công nhận chức danh giáo sư, chỉ nên dựa vào bài nguyên gốc. Các bài báo khác không được tính, nhưng có thể dùng để đánh giá vị thế của ứng viên trong chuyên ngành.

Đề nghị 4: xem xét vai trò của tác giả trong bài báo khoa học

Ngày nay, nghiên cứu khoa học là một môi trường hợp tác đa ngành, do đó mỗi bài báo có nhiều tác giả. Tính trung bình một bài báo y khoa có 5-7 tác giả (thậm chí cũng có trường hợp tập đoàn khoa học mà bài báo có hơn 1.000 tác giả?!). Do đó, vấn đề là đánh giá được đóng góp của tác giả ứng viên trong bài báo.

Hiện nay, cách làm của hội đồng là... trung bình hóa. Chẳng hạn, một bài có 5 tác giả (kể cả ứng viên) thì điểm của ứng viên được xem là 1/5. Đó cũng là một sự vô lý. 

Trong “văn hóa” công bố khoa học ngành y sinh học, tác giả chánh thường là tác giả liên lạc (correspondence authors). Tác giả liên lạc có thể đứng tên tác giả đầu, nhưng thường là người đứng tên tác giả cuối.

Đề bạt chức vụ khoa bảng là một hình thức ghi nhận đóng góp cho khoa học, nên tôi đề nghị hội đồng chỉ xem xét những bài ứng viên là tác giả chánh hoặc tác giả đầu, hoặc tác giả cuối. 

Một quy ước bất thành văn ở nước ngoài là ứng viên phải là tác giả chánh, tác giả đầu và tác giả cuối của ít nhứt 60% bài báo khoa học. Các bài khác mà ứng viên là đồng tác giả vẫn được tính, nhưng đó không phải là những bài quyết định.

Đề nghị 5: hãy bỏ sự lệ thuộc vào con số bài báo

Hiện nay, quy định về số bài báo khoa học rất cứng nhắc và thấp. Chẳng hạn, quy định “ứng viên phó giáo sư phải có ít nhất 2 bài báo quốc tế, giáo sư phải có 3 bài báo quốc tế” là thấp và chưa rõ ràng. 

Nghiên cứu sinh ngày nay khi tốt nghiệp cũng có thể công bố ít nhất 2 bài báo khoa học trên các tập san trong danh mục WoS. Và nếu nghiên cứu sinh qua giai đoạn hậu tiến sĩ 3 năm thì số bài báo khoa học tối thiểu là 6. Do đó, ứng viên giáo sư mà chỉ có 3 bài thì khó thuyết phục các nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ.

Không nên quy định số bài báo khoa học vì số lượng không nói lên chất lượng. Và sự lệ thuộc này rất dễ bị lạm dụng bằng cách công bố những nghiên cứu nhỏ và không quan trọng. 

Tôi đề nghị dùng chỉ số H để đánh giá. Ứng viên có chỉ số H bằng 10 có nghĩa là đã công bố 10 bài báo khoa học với số lần trích dẫn tối thiểu là 10. Do đó, chỉ số H phản ảnh cả số lượng và chất lượng, đã được các hội đồng đề bạt chức danh giáo sư nước ngoài sử dụng rất phổ biến. 

Trong trường hợp Việt Nam, có thể lấy số liệu về chỉ số H cho cấp phó giáo sư ngành y là 5 và cấp giáo sư là 15 làm điểm tham khảo tối thiểu. Cần nói thêm rằng ở Mỹ, ứng viên phó giáo sư y thường có chỉ số H trung bình là 10, giáo sư là 22.

Tiến tới chuẩn quốc tế

Ở các đại học phương Tây, mục tiêu của việc đề bạt (hay “công nhận”) giáo sư nhằm nhận dạng nhân tài trong khoa bảng, nhận dạng người có khả năng lãnh đạo. Lãnh đạo thể hiện qua đa vai trò của ứng viên đó: là học giả, là nhà nghiên cứu, là thành viên của cộng hòa học thuật, là người có thẩm quyền và là người phản biện xã hội. 

Một người chỉ có công bố khoa học mà thiếu những hình ảnh kia vẫn chưa thể là giáo sư.

Dựa trên nguyên lý đó, người ta đề ra 3 trụ cột về các tiêu chuẩn: nghiên cứu khoa học; giảng dạy và đào tạo; phục vụ cho chuyên ngành, xã hội và tư cách lãnh đạo. Nghiên cứu khoa học được thể hiện qua quá trình nghiên cứu và công bố khoa học, phẩm chất khoa học và tầm ảnh hưởng.

Không phải có hàng chục bài trên Nature hay Science hay có nhiều trích dẫn là tự động được bổ nhiệm giáo sư; mà phải xét toàn diện quá trình nghiên cứu. ■

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận