TTCT - Vừa qua, Prairie Schooner - tạp chí văn học hàng đầu của Mỹ với lịch sử 89 năm phát triển - vừa ra mắt một dự án thơ đặc biệt với các tác phẩm đến từ Việt Nam và Mỹ (*). 16 bài thơ của các nhà thơ Việt Nam đã sánh vai cùng 16 bài thơ của các nhà thơ Mỹ để kể những câu chuyện về cô và dì. Các nhà thơ Việt Nam sánh vai cùng các nhà thơ Mỹ trên Prairie Schooner Nhà thơ, dịch giả Nguyễn Phan Quế Mai, người được Prairie Schooner ủy nhiệm phụ trách dự án từ phía Việt Nam, đã có bài viết về dự án này, TTCT trích giới thiệu. Khi tìm kiếm những bài thơ Việt viết về cô và dì cho tạp chí Prairie Schooner, tôi nhận thấy rằng họ rất ít xuất hiện trong thơ, trong khi đã có rất nhiều bài thơ viết về những người phụ nữ khác trong gia đình như mẹ và chị. ... Mười sáu bài thơ Việt trong dự án này đã được chọn từ những bài thơ chúng tôi nhận được và chuyển ngữ một cách cẩn trọng trong nhiều tháng qua. Trong khi mỗi bài thơ kể một câu chuyện về cô hoặc dì, tất cả 16 bài thơ cùng hợp nhất để tôn vinh vai trò quan trọng của những người phụ nữ này trong cuộc sống người Việt, cũng như trong sự trường tồn của đất nước chúng tôi. Việt Nam là một đất nước giàu bản sắc văn hóa. Cô và dì là những người kể chuyện để các truyền thống văn hóa luôn sống động trong lòng thế hệ những người Việt trẻ, như trong bài Cô tôi của nhà thơ Thạch Quỳ: Một quãng thời gian đi qua Đọng vào trong mái tóc hoa trên đầu Bao nhiêu tích cũ dài lâu Qua lời cô, lại có màu cổ hơn Một thời cái tráp sơn son Cỏm (**) cau đỏ, lá trầu thơm, hội hè. Trên thực tế, cô và dì giúp chuyển giao di sản văn hóa của chúng tôi từ đời này sang đời khác. Trong bài thơ Bóng quê, nhà thơ Trần Quang Quý viết: Lại thấy triền đê cô gánh những chiều về gánh cả hoàng hôn chảy ròng ròng trên gương mặt gánh những mùa đi nỗi niềm chớp bể bài học giản dị bài học của mồ hôi, của mùa cây đọng quả đấy là cổ tích của người nông dân muốn truyền lại cháu con biết hái gặt cánh đồng nhân nghĩa. Thư pháp Hoàng Anh Tuấn Người Việt được biết đến với tinh thần chịu thương, chịu khó. Nhưng chúng tôi cũng say mê vẻ đẹp và biết cách tôn vinh nó. Hình ảnh của người cô hiện lên thật gợi cảm trong bài thơ Khăn trắng của nhà thơ Hoàng Anh Tuấn: Ngực cau nhu nhú yếm nâu Mười lăm tuổi đã làm dâu nhà người Sông sâu chết đuối nụ cười Hóa thành men rượu cho đời say sưa. Những câu chuyện về cô và dì dẫn chúng ta về quá khứ, đan chúng ta vào từng ngõ ngách cuộc sống. Trong Từ thôn Nghĩa Lộ của nhà thơ Nguyễn Quang Hưng, người cô là một nhân vật huyền bí, người khiến vẻ đẹp của làng quê Việt Nam hiện lên lung linh, mờ ảo: Núi phượng loang chuông mõ tưng bừng ca hát Núi lân cây cao vươn bờm nhảy nhót Kìa dáng rùa lớn nghiêng nghiêng đầu Mờ mờ bóng cô theo trẻ con chạy diều những chiều Hào quang đâu về trong gió mát. ... Nỗi đau buồn và mất mát do chiến tranh để lại hằn sâu lên những bài thơ được giới thiệu ở đây. Trong Sinh năm trâu, Hà Văn Tỉnh cho chúng ta thấy cô và dì là những nhân chứng cho những sự kiện lịch sử của đất nước chúng tôi: Cái đói năm Giáp Thân Vắt kiệt bầu sữa của bà, kéo bác đi xềnh xệch Mẹ và dì lớn lên bằng củ chuối qua ngày Đạn Pháp vèo vèo ngang tai nhức nhối. Trong rất nhiều những cuộc chiến tranh đã diễn ra trên dải đất Việt, cô và dì đã trở thành những điểm tựa cho sự sống còn của nhiều gia đình. Họ đảm trách việc kiếm sống thay cho những người đàn ông đang phải ra trận. Và tôi thấy bóng dáng người cô ruột của mình trong bài thơ Dì tôi của nhà thơ Nguyễn Hữu Hà: Liêu xiêu tải gạo bên người vẫn là dáng của mẹ tôi ngày nào thảm êm bước thấp bước cao như vừa mới khỏa nước ao lên bờ Vuông khăn tần tảo ngày xưa hết bà đến mẹ bây giờ dì mang. Việt Nam đã bị giày xéo bởi những bước chân xâm lược đến từ nhiều quốc gia như Mông Cổ, Trung Quốc, Pháp, Nhật, Mỹ. Gần đây, cuộc chiến tranh Việt - Mỹ đã cướp đi mạng sống của gần 3 triệu người, rất nhiều người trong số họ là những người dân thường. Nhà thơ Lữ Thị Mai đã khắc họa nỗi đau ấy trong bài thơ Cô Hà: khi tôi sinh ra cô đã không còn nữa nhưng cô thường trở về trong giấc mơ cha mẹ buồn bã cười và âu yếm nhìn tôi năm cô mười hai tuổi một trận bom trút xuống trường làng chiếc áo mới màu tím hoa cà bị rách tả tơi cả nhà tiễn cô cùng hàng trăm sinh mạng khác. Thư pháp Bùi Hoàng Tám Chiến tranh đã kết thúc hơn 40 năm nhưng những vết thương mà nó để lại vẫn còn sâu hoắm và rỉ máu. Trên dải đất Việt Nam có biết bao phụ nữ vẫn đau đáu chờ mong tin tức của chồng. Chúng ta gặp một trong những người phụ nữ thủy chung ấy trong Lời thề mùa đông của nhà thơ Bùi Hoàng Tám: Cũng là phận gái chờ chồng Người còn hóa đá - Cô không hóa gì! Đá còn đợi bước thiên di Còn con để bế, cô thì chịu không Núi còn hòn vợ, hòn chồng Cô tôi ôm nỗi chờ mong bạc đầu... Ở miền Nam Việt Nam, nỗi đau thời hậu chiến từng tồn tại ở một hình thức khác, và hiện lên sâu thẳm trong Bão thời đại của nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh: Một nửa gia đình tôi, một nửa cuộc chiến tranh Từ cô, nửa chân trời chôn ngục tù Khi chúng tôi ăn gạo, cô và các em ăn bo bo Chú tôi gắng làm một cuộc kiểm điểm bản thân trong trại lao cải. Khi Việt Nam nỗ lực vượt qua mọi gian nan để tiến về phía trước, những người cô, người dì phải vác trên vai những gánh nặng kinh tế. Trong bài thơ Người nhặt phân khô của Nguyệt Phạm, người cô đại diện cho số phận của rất nhiều phụ nữ nghèo: Lần cuối cùng tôi trở về Làng quê đâu còn dáng còng gánh gạo Chỉ còn những lom khom lom khom theo đít con bò Những đụn phân rớt chưa kịp khô đã không còn trên mặt đất Chỉ còn bà cô nhăn nheo và hình như ngày càng lùn đi đang giành mua từng bao phân bò Người ta hăm he xúc phân, xúc cả buồn - vui - yêu - ghét lên xe và chở đi mất. Chiến tranh, xung đột và nghèo đói đã buộc nhiều người phải xa rời quê hương, bản xứ. Thân phận chìm nổi của người Việt xa quê đã được khắc họa trong Cô tôi của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu: Tôi nhìn dáng lưng còng lận đận Gần trọn đời héo hắt nỗi xa quê Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi Cội nguồn ơi, chiếc lá lại rơi về... Và nỗi cô đơn hiện lên ám ảnh trong Hoàng hôn của nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc: Cô tôi ngắt cọng rau chiều Thả vào cơn rười rượi Đun bếp nhen những sợi khói lạc bầy Chuông chùa đổ hồi đầy mâm cô đơn. Nhưng, vượt qua những nỗi buồn, mất mát và gian khó, người phụ nữ Việt Nam vẫn đầy ắp tình nhân ái và vị tha. Mải chăm sóc cho người khác, họ thường quên nghĩ đến bản thân mình. Trong Mẹ với dì là một, nhà thơ Võ Quê viết: Con hình dung Dòng sữa thiêng từ mẹ Được tiếp truyền thiêng liêng Hương sữa từng giọt thơm Kết tinh tình mẫu tử Mẹ với dì là một Dì với mẹ là một. Tôi đặc biệt xúc động khi đọc bài thơ Dì tôi của nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã. Trong bài thơ này, người dì “là gia phả của chiến tranh/vết bom nám mặt/chất độc da cam thấu máu”, nhưng dì hi sinh cuộc đời mình cho những đứa trẻ mồ côi: dì đã nhặt chúng trong sọt rác như nhặt tiếng khóc một đời làm đàn bà và nuôi chúng bằng thao thức... Những người cô và dì của xứ sở Việt Nam không chỉ là những người kể chuyện. Họ còn là nạn nhân chiến tranh, là những người sống sót để rồi lại cứu sống người khác. Với nhà thơ Lê Vĩnh Tài, dì út của anh còn có một vai trò đặc biệt khác: dì là người đồng hành trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật: những lối đi nhỏ chen giữa lúc mưa bão thiên tai giữa những thiên tài thơ bước đi sống động Dì không thích thơ hát những câu ngớ ngẩn dù đó là cách để thơ tận hưởng cuộc sống. Như chúng ta có thể thấy, những bài thơ được giới thiệu ở đây phong phú về đề tài, không gian và phạm trù lịch sử. Ở bản gốc bằng tiếng Việt, chúng còn phong phú ở loại hình nghệ thuật: có những bài thơ được viết ở thể tự do và cả những bài thơ lục bát. Thơ lục bát đặc biệt khó dịch vì ngoài quy tắc 6-8, mỗi chữ, mỗi câu chất chứa biết bao hàm ý về thông điệp và hình ảnh. Tôi rất biết ơn giáo sư, nhà thơ Kwame Dawes, tổng biên tập của tạp chí Prairie Schooner, người đã miệt mài làm việc cùng tôi và dịch giả Thiếu Khanh trong nhiều tháng qua để chuyển ngữ các bài thơ lục bát. Mặc dù thể thơ 6-8 không còn hiện diện ở bản dịch tiếng Anh, chúng tôi tin rằng thông điệp và nhạc điệu của những bài thơ ấy vẫn được bảo toàn. Tôi cũng chân thành cảm tạ dịch giả Thuy Dinh, người đã hoàn thành xuất sắc công việc dịch của chị và giúp cho năm bài thơ tự do có được một cuộc sống mới ở thể tiếng Anh. Vào ngày 30-4-2015 vừa qua, Việt Nam kỷ niệm 40 năm kết thúc chiến tranh. Trong suốt 40 năm qua, các văn nghệ sĩ Việt Nam và Mỹ đã đóng góp vào các hoạt động đối thoại, hiểu biết và hàn gắn giữa hai dân tộc chúng ta. Dự án này tiếp nối những nỗ lực chung trước đây và nhắc nhở chúng ta rằng có rất nhiều việc phải làm để hàn gắn những vết thương chiến tranh vẫn còn dai dẳng.■ (*): (http://prairieschooner.unl.edu/fusion/aunts). (**): Cỏm: dụng cụ đong, đo lường. cau khô ngày xưa. Tags: 16 bài thơThơ Việt giới thiệu ở Mỹ
AstraZeneca thu hồi vắc xin phòng COVID-19 trên toàn thế giới NGỌC ĐỨC 08/05/2024 AstraZeneca khẳng định việc thu hồi vắc xin phòng COVID-19 trên toàn cầu đơn thuần vì mục đích thương mại khi đã có nhiều dòng vắc xin khác hữu hiệu hơn.
Novaland giải thích việc công an yêu cầu cung cấp hồ sơ dự án Aqua City NGỌC HIỂN 08/05/2024 Novaland chính thức phản hồi thông tin liên quan đến việc Công an TP.HCM yêu cầu cung cấp hồ sơ khu đô thị Aqua City.
Nắng nóng khiến người bệnh đái tháo đường có thể gặp nhiều biến chứng TƯỜNG VY 08/05/2024 Nắng nóng làm tăng nguy cơ kiệt sức và khiến bệnh nhân đái tháo đường khó duy trì lượng đường trong máu bình thường hơn. Vì vậy, cần phải tuân thủ những thói quen lành mạnh giúp kiểm soát bệnh đái tháo đường trong mùa nắng nóng.
Cột lửa ngùn ngụt thiêu 40 xe điện du lịch ở Hội An THÁI BÁ DŨNG 08/05/2024 Rạng sáng nay (8-5), một vụ hỏa hoạn tại bãi gửi xe trong Trường cao đẳng Điện lực Miền Trung ở Hội An (Quảng Nam) đã thiêu rụi 40 xe điện chuyên dùng chở khách du lịch của một doanh nghiệp.