TTCT - Cuối thế kỷ 19, một thanh niên Trung Hoa từ bỏ mảnh đất Phước Kiến loạn lạc khốn khổ để qua xứ An Nam, lần xuống miệt Nam Kỳ lục tỉnh mưu sinh. LÊ VĨNH HÚYCuối thế kỷ 19, một thanh niên Trung Hoa từ bỏ mảnh đất Phước Kiến loạn lạc khốn khổ để qua xứ An Nam, lần xuống miệt Nam Kỳ lục tỉnh mưu sinh. Nhờ có chút chữ nghĩa, biết đánh bàn toán, chàng Hoa kiều được một chủ chành (1) ở Trà Vinh thu nhận, cho làm tài-phú (2). Được vài năm, thấy anh tài-phú thiệt thà lại siêng năng giỏi giắn, ông bà chủ chành lại gả con gái cho.Tranh: ĐỨC TRÍĐôi vợ chồng ra riêng, chồng bắt mạch hốt thuốc, vợ buôn hàng xén, lần hồi cũng nên cơ nghiệp, tậu thêm ruộng vườn. Họ có hết thẩy mười bốn người con, trong đó có hai anh em sanh đôi nổi tiếng hào hiệp trượng nghĩa. Cậu Sáu An đã sớm thành gia thất, còn cậu Bảy Bình tánh ưa bay nhảy, chưa muốn vướng vòng vợ con lẩn quẩn. Cả hai cùng theo nghề thương lái để rộng cẳng giang hồ.Một hôm, chiếc ghe buôn thả xuôi nước ngang vàm Trà Cú thì Bảy Bình ngó thấy một thiếu nữ đang giặt đồ ở bến sông. Cậu than với anh:- Thôi xong, chắc đời tui neo lại bến này rồi, anh Sáu ôi!Nói vậy rồi cậu tót lên bờ, lần theo dò hỏi thân thế cô gái, để anh mình dẫn đoàn ghe thương hồ đi tiếp. Cô gái đó là con chủ điền trong vùng, cũng con thứ bảy trong nhà, tên Phương. Cô đẹp người tốt nết, thùy mị đảm đang, nhiều người ngấp nghé nhưng cô chưa hề để mắt tới ai. Bảy Bình say người đẹp, xin vô làm mướn nhà nàng. Chưa đầy nửa năm, cậu được ông chủ điền tin cậy cất nhắc, giao trông coi sổ sách trong điền.Phần ông tài phú họ Huỳnh, hay tin Bảy Bình đem thân đi ở đợ, lúc đầu ông giận lắm, nhưng sau nghĩ lại, cho là con mình đã gặp người vừa duyên phải lứa thì đổi giận làm vui, chọn ngày lành qua nhà chủ điền họ Lưu xin kết sui gia. Bữa đó trong điền có con trâu nổi chứng, hễ gặp người là chém, làm náo loạn cả cánh đồng. Bảy Bình nổi hứng trổ oai, xoay trần quần nhau với trâu dữ cả buổi mới hàng phục được. Khi người nhà ra tìm, cho hay hai họ đang giáp mặt bàn chuyện lứa đôi cho mình, Bảy Bình chỉ kịp nhảy tùm xuống ao, hụp đầu vài cái để rũ bùn rồi hối hả thay đồ chạy về. Chàng rể ra mắt nhạc gia đầu tóc sũng nước, quần áo còn ngậy mùi bùn non. Lúc nầy ông bà chủ điền mới hay chàng trai mấy tháng nay làm công nhà mình vốn con nhà tài phú. Cô Bảy Phương cảm động tấm chân tình, ưng lời vầy duyên cá nước. Họ sanh được cô con gái, gia đình êm ấm no đủ yên vui, cho tới khi…Đang thời ly loạn mà Sáu An, Bảy Bình cứ đi ghe hoài, người thân cản mấy cũng chẳng nao. Họ có lý riêng: thời buổi hiếm ai đi buôn mà mình dám đi mới được lời nhiều. Rồi tai họa xảy ra, làm tan tác cả một dòng tộc. Bữa đó, đoàn ghe ghé chợ Phong Thạnh thuộc huyện Cầu Kè nhè đúng lúc Việt Minh rải truyền đơn trong chợ, Tây đang dẫn lính đi lùng. Sĩ quan Pháp nghi Sáu An, Bảy Bình là Việt Minh liền bắt trói rồi cho hành hình, không qua xét xử. Đao phủ là một người Khmer. Y không phải dân giết người chuyên nghiệp nên làm gan nhắm mắt nghiến răng phạt đại mã tấu ngang thân hai người. Công xá chỉ là lít rượu đế, người Khmer uống đến say mèm, rồi sau đó bỏ trốn về phum sóc.Hai anh em Sáu An, Bảy Bình lúc đó mới ngoài ba mươi tuổi. Ông tài phú phẫn uất đau lòng vì mất cùng lúc hai người con, nên quyết tái di cư. Được anh em cùng bang hội giới thiệu, ông lận ít vàng bạc, dắt theo cậu con út, xuống tàu tìm đường qua Cựu Kim Sơn, song dọc đường ngã bệnh rồi mất, người con út theo cha cũng từ đó bặt tăm hơi. Bà tài phú sau đó xuất gia, mượn câu kinh tiếng kệ hòng nguôi quên thế sự vô thường.Lúc mất, Bảy Bình chỉ có mỗi mụn con gái. Cô Bảy Phương bữa đó dắt con xuống bến sông đón ghe chồng về, tưởng được mừng họp mặt, nào dè lại hay tin dữ chồng chết chẳng toàn thây. Đau thương quá độ, người quả phụ lâm trọng bệnh, mấy tháng sau cũng nối gót theo chồng. Bé Ánh - con Bảy Bình với Bảy Phương - mới tám tuổi đã mồ côi cha mẹ, không anh em ruột rà, một mình cui cút giữa quê nghèo bốn bề giặc giã.Cô bé được người dì đem về nuôi. Ở nhà quê, người ta ham công tiếc việc. Tự biết phận mình nên mới nhiêu đó tuổi đầu, bé Ánh đã quán xuyến việc nhà: giữ em, tắm heo, chăn trâu, nấu cơm, giặt giũ… Người cô thứ Mười Một (em Bảy Bình) tới thăm, thấy cháu gái ốm nhom đèo đẹt, da đen khét nắng, tóc cháy râu bắp nên khăng khăng đòi đem cháu về nuôi. Chủ nhà ngại mang tiếng bạc đãi cô nhi nên quyết ngăn cản. Bị cả đám đông hùng hổ bao vây, cô Mười Một tay dắt cháu, tay rút dao phay chém phập cột nhà, buông lời thề độc: "Mười Một này thề suốt đời không lấy chồng, quyết một dạ ở vậy nuôi con Ánh cho tới ngày nó lớn khôn. Nếu sai lời thề, xin chết không đất chôn. Còn bữa nay, người nào muốn cản tui mang cháu đi, Mười Một xin phép bửa đầu kẻ đó!".Về với cô, bé Ánh được rày đây mai đó, bé vui sướng lắm vì được vòng tay vững chãi cô mình đùm bọc. Nhưng những ngày tươi đẹp chẳng được bao lâu vì vài năm sau cô Mười Một từ trần. Lúc lâm chung, cô cầm tay bé Ánh dặn dò: "Mệnh trời không cho cô được chăm sóc con tới ngày khôn lớn, thôi thì cô cháu mình chia tay từ đây. Con ở lại ráng sống sao cho khỏi thẹn con của Bảy Bình, cháu cưng cô Mười Một, nghe chưa!". Vậy là lần nữa bé Ánh quấn khăn tang, tiễn người thân về cõi vĩnh hằng.Năm mười hai tuổi, có người bà con xa về quê chơi, khi trở lên Biên Hòa đã dắt Ánh theo. Từ đó cô bé ở đợ tự nuôi thân. Sáng phụ dọn hàng sạp vải cho người bà con ở chợ Biên Hòa, trưa ra gánh nước, rửa chén cho mấy tiệm hủ tiếu, tối học thêm nghề may. Hai mươi tuổi, cô Ánh mở tiệm may kế rạp hát Biên Hùng. Con bé nhà quê đen đúa ốm nhom thuở xưa giờ đã thành cô Hai Ánh hoa khôi xứ bưởi. Cả đám sĩ quan, danh ca, bác sĩ, kỹ sư đua nhau lượn lờ, xe hơi choáng lộn xếp hàng dài trước cửa tiệm may mong rước người đẹp về dinh, nhưng hết thảy đều bị cô gạt phắt để tới với một anh trai Tàu cục mịch, quanh năm áo thun tà-lỏn đẩy xe nước mát bán rong.Hăm ba tuổi, cô về làm dâu gia đình người Hoa nhiều khuôn phép. Rồi năm sau, cô sanh ra… tôi.Ngày tôi còn nhỏ, mẹ thường kể chuyện bên ngoại cho nghe. Mẹ kể những đau thương bằng giọng tỉnh rụi, cứ như chuyện của ai đó, chẳng liên can gì tới mình. Những gian truân lầm than của đứa trẻ mồ côi một thân chèo chống xuôi ngược dòng đời làm máu tôi sôi sục, thường giậm chân trách mẹ:- Sao lúc đó mẹ không kêu con tới phụ?Mẹ tôi cười ngất:- Lúc đó mày còn dưới mắt cá, ở đâu ra mà phụ với giúp!Ngày hòa bình thống nhất, mẹ thắp nhang vái van ông bà ngoại, rằng đất nước nay đã an bình, đúng như tâm nguyện ông cố tôi khi đặt tên cho hai anh em sinh đôi. Mẹ vui vì từ nay các con mẹ khỏi phải đau khổ tai họa chiến tranh như đời mẹ và cha ông xưa.Ba ngày sau đó, ba tôi gom vàng bạc trong nhà, toan bắt mối đưa cả gia đình ra nước ngoài. Nhưng nửa đường thì ba bị tông. May ba tôi không chết, nhờ có người qua đường sau khi vét sạch vàng bạc trên người, đã động lòng hảo tâm gọi điện báo mẹ tôi hay, kịp đưa ba đi bệnh viện. Tai nạn làm gương mặt ba biến dạng ghê gớm, em gái tôi giựt mình khóc thét khi nhìn thấy ba. Cả hàm răng trên của ba sụp xuống, phải dùng niền inox gá lên; một chân gãy xương, tuy nối lại được nhưng trật khớp, từ đó ba tôi chỉ có thể đi cà nhắc chậm chạp. Gánh nặng gia đình dồn hết lên vai mẹ tôi.Năm sau, cả nhà tôi bồng bế nhau về quê ngoại sanh sống. Với chút tư trang sót lại, ba mẹ tôi mua miếng vườn rồi khai khẩn thêm. Mua xong miếng vườn thì trong nhà chẳng còn gì, cả nhẫn cưới của ba mẹ cũng không còn. Tôi với thằng em kế phụ mẹ rà miểng bom, vỡ đất, đào mương. Cả nhà gồm ba mẹ với năm anh em tôi chen chúc nhau sống trong căn chòi lá tạm bợ, chỉ vừa đủ chỗ kê cái giường và quây bồ đựng lúa. Những lúc gia đình lâm cơn túng đói ngặt nghèo, mẹ tôi vẫn cười hồn hậu:- Ráng lên, nhà mình nhứt định qua được bận này! Xưa mẹ một mình tứ cố vô thân còn sống được, huống chi nay cả nhà bảy người chung sức…Mùa rẫy đầu tiên, nhà tôi trồng cải bắp. Đất tốt, cải lên xanh mượt, bắp cải nào cũng nặng trĩu trịu, xanh mởn ngon muốn cắn. Ba mẹ con mướn xuồng chèo qua chợ Đại Ngãi bên Sóc Trăng bán. Bị chủ vựa ép giá, mẹ gánh luôn ra đầu chợ ngồi bán lẻ từng bắp một, nhờ vậy đủ tiền mua hột giống với phân bón mùa sau, lại sắm được cặp heo con.Đêm, mẹ thường thắp nhang, khấn vái rất lâu. Tôi hỏi mẹ vái gì, mẹ mỉm cười:- Mẹ vái cầu ông bà ngoại phù hộ nhà mình…Một hôm, mẹ mơ thấy ông ngoại tôi và ông Sáu về, hai anh em than phải nằm bờ bụi trơ vơ lạnh lẽo lắm, biểu mẹ rước hài cốt hai người về. Trong mơ, mẹ hỏi làm sao tìm được cốt. Vì hồi xưa, ông cố đi lãnh xác con mà không được, còn suýt bị Tây bắt. Trải bao khói lửa đạn bom cày xới, biết tìm đâu nắm xương tàn hai ông đây! Mẹ kể: "Ông ngoại con biểu cứ tìm người lúc xưa chém hai ông!".Mẹ tin giấc mơ đó lắm, làm tôi cũng nôn nao trong bụng. Mẹ nhắc hồi xưa, mỗi chuyến đi buôn về, ông ngoại thường đặt mẹ ngồi trên vai, diễu quanh khắp xóm…Trong nhà chẳng còn đồng bạc, mà muốn tìm cốt e phải dài ngày mới họa may tìm đặng. Gần nhà có người muốn vét hồ cá tra nhưng ai nghe cũng gớm, chẳng ai nhận làm. Hồ cá kế bên lộ, người đi đường chột bụng chỉ cần xé lá chuối khô rồi bước vô an tọa. Đã vậy ông cán bộ còn xây thêm chuồng heo trên ao cá. Đứng cách hồ cả công đất còn nghe mùi cuồn cuộn…Tôi với thằng em tới đòi giá cao, ông cán bộ bấm bụng ưng thuận. Vét hai ngày xong ao cá vồ, được món tiền cũng bộn, đủ đi tìm rước ông ngoại. Bơi xuồng tới chợ Phong Thạnh hỏi thăm thì hai mẹ biết người đao phủ Khmer năm xưa chém ông ngoại vẫn còn sống! Ông lão đó giờ nửa tỉnh nửa điên, không vợ con thân thích, đang ăn xin ngoài chợ.Nghe mẹ tôi hỏi tới chuyện xưa, ông rùng mình trợn trắng, giãy đành đạch như cá lóc bị đập đầu. Mẹ tôi cạo gió, giựt tóc mai cả tiếng, ông mới hồi tỉnh. Rồi ông tỉnh hẳn, đứng phắt dậy dắt mẹ con tôi đi vùn vụt, phăng phăng băng đồng lướt bụi. Tới thẻo đất um tùm ô-rô cóc-kèn bên bờ sông Phong Thạnh, ông nhảy loi choi:- Đây! Đây, ở đây! Hai người. Tui nhớ kỹ lắm.Ông phụ mẹ con tôi đào lên. Bàn tay thuở xưa vung cao mã tấu giờ run rẩy xắn lưỡi leng xuống. Đất mềm nên dễ đào, chỉ hơn nửa tiếng là lộ ra hai bộ hài cốt đen thui như gỗ mun nằm chung một chỗ, trộn lộn với nhau. Lạ thay, gần bốn mươi năm vùi trong đất bùn, xương cốt hai ông vẫn chưa rã, chắc đợi người thân rước về. Mẹ nhận ra bốn cái răng vàng của ông Sáu, còn thì chia cốt làm hai gói. Gói có răng vàng trao lại cho con ông Sáu.Cuộc đi tìm di cốt tưởng chí ít cũng mười bữa nửa tháng, dè đâu chỉ hơn nửa ngày đã tìm ra. Mẹ tôi trút hết món tiền còn lại cho ông lão Khmer. Phải là con mẹ mới biết món tiền đó nặng cỡ nào. Mẹ tôi tiện tặn cả đời, bòn mót từng đồng xu để lo cho mấy đứa con. Thèm ăn hủ tiếu, nhưng hồi sáng đãi ông lão, mẹ chỉ kêu hai tô. Một tô phần ông lão, tô còn lại sớt đôi, mẹ con chia nhau. Chịu ảnh hưởng từ mẹ, tới giờ tôi vẫn quen ăn cơm không dám để rớt nửa hột; vô quán xá ăn sáng, quyết húp tới cặn chẳng sót miếng nước lèo; uống cà phê là nhai luôn cục nước đá cuối cùng, không chừa hột đường dằn đáy ly. Mấy khứa chủ quán thường khen là bán cho tôi đỡ phải rửa tô chén ly tách vì sạch bà nó rồi!Mà món tiền đó còn là tiền công vét hầm cá của anh em tôi, nên tôi xót lắm, tính thầm trong bụng: Lát nữa tìm cách để mẹ về trước, còn mình lộn lại chặn đường lão Khmer đòi lại phân nửa, cho lão nhiêu đó cũng đủ lắm rồi! Nhưng ông lão ăn xin không chịu cầm tiền mà còn sụp xuống lạy, làm mẹ con tôi hoảng hồn, phải quỳ xuống trả lễ. Lạy qua lạy lại một hồi, tôi chịu hết xiết, xốc nách ông dậy:- Nghiêm, đứng thẳng… đứng!Mẹ vừa khóc vừa siết chặt bàn tay từng vấy máu ông ngoại tôi:- Bác ơi, chuyện xưa qua lâu rồi, giờ bác giúp cháu lấy được hài cốt cha về thì bác là người ơn của cháu. Số tiền này bác cứ nhận, coi như để xóa bỏ chuyện xưa cho nhẹ lòng, mà cha với bác của cháu dưới đó cũng được yên dạ.Sau đó, mẹ con tôi về bên Trà Cú cải táng, rước bà ngoại về nằm bên ông ngoại. Lấy cốt ông ngoại được hai tháng thì ông lão Khmer qua đời. Nghe nói cuối đời, ông hết điên điên khùng khùng, cạo đầu đi tu và được hỏa táng trong chùa Khmer. Mỗi năm, tới giỗ ông ngoại, mẹ tôi không quên khấn ông lão Khmer về uống chung với ông ngoại và ông Sáu ly rượu. Mẹ nói:- Chết rồi thì mấy ông gặp nhau cũng kết làm bạn bè với nhau, còn kể ơn oán hồi sống mần chi!■(1) Vựa buôn lúa.(2) Kiểu như thư ký, kế toán. Vĩ thanhTruyện ngắn Vén nẻo vô thường tôi viết hồi tháng 3-2011. Gõ một mạch, chữ ra tới đâu nước mắt lăn dài tới đó. Xót ông bà ngoại, thương phận mẹ, và tủi cho kiếp mình.Tôi viết để tự nhắc mình nhớ lấy lời mẹ dặn: đừng nuôi oán thù.Sống được ngày nào thì mở lòng ra yêu lấy và tận hưởng thế gian này. Kiếp người ngắn ngủi như gió thoảng bên thềm, sương tan buổi sớm. Cưu mang thêm cừu hận chỉ làm kiếp sống chính mình thêm oan trái nặng nề.Giờ thì mẹ tôi đã lẫn, quên nhiều hơn nhớ. Chuyện năm bảy chục năm trước mẹ nhắc rõ rành từng chi tiết, nhưng lại quên mình ăn sáng gì chưa. Có lúc mẹ ngỡ ngàng nhìn con, chẳng biết thằng nào sao lại bóp chân cho mẹ. Gần tám mươi, mẹ không còn tự tay bưng được ly nước chén cơm; tới bước đi cũng phải tập lại từ đầu, chập chững như thuở sơ sinh mới tới thế gian.Không oán không hờn, không thương không luyến, mẹ tôi đang dựa lưng ra ghế, nhẹ nhàng ngắm mây chiều rực rỡ phía chân trời. Tags: Truyện ngắn Việt Nam
Ông Trump chính thức tuyên bố sẵn sàng trừng phạt Nga BÌNH AN 13/09/2025 Ngày 13-9, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã gửi thư cho các quốc gia thành viên NATO, kêu gọi họ ngừng mua dầu mỏ của Nga.
Cầu Bình Lợi ‘nghẹt thở’ trong biển xe chiều cuối tuần CHÂU TUẤN 13/09/2025 Đến 18h20 chiều 13-9, tình hình giao thông quanh khu vực cầu Bình Lợi (TP.HCM) vẫn hết sức căng thẳng, dòng xe ken đặc nhiều hướng.
Bác sĩ nội trú: Sau màn gọi tên gây ‘bão’ sẽ là chặng đường đầy thử thách DƯƠNG LIỄU 13/09/2025 Bác sĩ nội trú chỉ là khởi đầu của hành trình mới, cần tiếp tục tu dưỡng - GS.TS Nguyễn Duy Ánh chia sẻ.
Lời khai của tài xế 'chặt chém' 2,5 triệu đồng cho cuốc xe 70km CHÍ TUỆ 13/09/2025 Sau khi chở từ Hà Nội về bến xe Hòa Bình, tài xế Nguyễn Trường Giang thấy bà Ly lớn tuổi, hiền lành nên yêu cầu phải trả 3,5 triệu đồng.