299 lính Mỹ và Pháp đã chết ở Beirut như thế nào?

HỮU NGHỊ 17/09/2007 18:09 GMT+7

TTCT - Vụ đánh bom ngày 23-10-1983 là vụ đánh bom vô tiền khoáng hậu: không chỉ tàn sát 241 thủy quân lục chiến (TQLC) Mỹ mà còn cả 58 lính dù Pháp trong lực lượng gìn giữ hòa bình đa quốc gia.

Phóng to
Doanh trại thủy quân lục chiến Mỹ sau vụ nổ

Tại sao TQLC Mỹ và lính dù Pháp đã phải chết thảm như thế?

Thủy quân lục chiến Mỹ không kịp nạp đạn

Báo cáo “U.S.Marines in Lebanon, 1982-1984” (Thủy quân lục chiến Mỹ tại Libăng: 1982-1984) đã tường thuật như sau:

“Mặt trời mọc sáng chủ nhật 23-10-1983 trên TP Beirut vào lúc 5g24. Do là sáng chủ nhật nên giờ báo thức sẽ chỉ vào lúc 6g30, và điểm tâm từ sau 8g, nên doanh trại yên tĩnh khác ngày thường. Buổi chiều, binh sĩ sẽ dành thời giờ để viết thư, chơi bóng. Đến cuối buổi, họ sẽ thưởng thức món thịt nướng...

Chánh án Tòa án liên bang Mỹ Royce C. Lamberth vừa ra phán quyết buộc Iran phải trả 2,65 tỉ USD cho gia đình của 241 lính Mỹ thiệt mạng trong vụ đánh bom doanh trại của TQLC Mỹ ở thủ đô Beirut (Libăng) năm 1983.

Phán quyết này căn cứ trên đơn kiện của một cựu binh sĩ TQLC Mỹ bị thương trong vụ tấn công này cùng 44 nạn nhân khác. Thật ra đây chỉ là tiếp nối của một phán quyết cũng do chánh án này đưa ra trong phiên xử cách đây hơn bốn năm, vào ngày 30-5-2003, theo đó Iran chịu trách nhiệm về vụ đánh bom này.

Tất nhiên, Iran bác bỏ phán quyết đơn phương này.

Sáng sớm đó, giao thông trên đường ra phi trường còn thưa thớt. Con đường đó có đoạn chạy song song với doanh trại của lực lượng TQLC. Trong đêm, đã có những cảnh báo rằng có những chiếc xe hơi khả nghi là dùng để đánh bom khủng bố.

Bởi thế, hạ sĩ Eddie A Difranco, đóng tại chốt số 6, một trong hai chốt gác ở mặt tiền và phía nam tòa cao ốc dùng làm tổng hành dinh và doanh trại của tiểu đoàn 1/8 TQLC, theo dõi sát sao một chiếc xe bồn chở nước màu vàng hiệu Mercedes Benz chạy vào bãi đậu xe nằm về phía nam chốt gác của anh.

Chiếc xe bồn chạy một vòng trong bãi đậu xe, rồi bỏ đi ra hướng sân bay. Không đầy một giờ sau, 6g22 như đã khai trong báo cáo, Difranco lại thấy chiếc xe đó xuất hiện trong bãi đậu xe, quẹo phải, tăng tốc độ đâm vào hàng rào phòng thủ giữa chốt gác số 6 và số 7, vọt qua cổng chính rồi đâm thẳng vào tầng trệt tòa nhà và phát nổ.

Ở chốt số 7 là hạ sĩ Henry P.Linkila. Anh nghe tiếng xe bồn rồ ga vọt qua đám kẽm gai lùng nhùng. Anh nhét một băng đạn vào khẩu M-16, lên đạn, chưa kịp bóp cò thì chiếc xe đã xông vào trong tòa nhà.

Hạ sĩ John W. Berthiaume gác ở chốt số 5 cũng nhìn thấy chiếc xe bồn, cố nghĩ xem nó định làm gì, nhưng không kịp phản ứng hoặc nổ súng, thậm chí tìm chỗ ẩn náu thì đã bị sức ép của vụ nổ hất tung xuống đất.

Trung sĩ Stephen E. Russell, trưởng toán gác ở cổng chính tòa nhà, nhìn thấy chiếc xe qua lỗ châu mai. Anh nghe tiếng xe rồ máy lúc xe chồm vào tầng trệt. Anh nhận ra ngay nguy cơ nên chạy khỏi vọng gác và la: “Bắn vào cabin xe! Bắn vào cabin xe”. Một hay hai giây sau, chiếc xe bồn phát nổ, anh bị hất tung lên trời và văng ra khỏi tòa nhà. Khi tỉnh lại, anh thấy mình đang nằm ngoài lộ, bên ngoài khuôn viên đơn vị của anh.

Vụ nổ làm sập cả tòa nhà chỉ trong vài giây. Khi thi thể cuối cùng được tìm thấy từ đống đổ nát, số người tử vong mới dừng lại với 241 người Mỹ, trong đó 220 người là binh sĩ TQLC, còn lại là nhân viên y tế thuộc hải quân tăng phái cho đơn vị. Đây là tổn thất lớn nhất trong một ngày đối với TQLC kể từ trận đổ bộ lên đảo Iwo Jima năm 1945 (trong cuộc chiến trên Thái Bình Dương với Nhật).

Báo cáo “Report of the DOD Commission on Beirut International Airport Terrorist Act, October 23,1983” của Bộ Quốc Phòng Mỹ về vụ khủng bố này cho biết thêm chi tiết như sau: “...Cơ quan điều tra FBI đánh giá rằng quả bom có lực nổ tương đương với 12.000 cân Anh chất nổ TNT (khoảng 5,4 tấn). Với lượng chất nổ này, cho dù chiếc xe tải khủng bố không lọt vào trong khuôn viên doanh trại mà nổ cách xa đến cả trăm mét, thì cũng gây thiệt hại lớn cho tòa nhà và thương vong đáng kể... Do chính kết cấu của tòa nhà mà tác động của vụ nổ càng tăng, khiến phần nền nhà và phần nóc bị vỡ trong khi đó cả tòa nhà bị tung lên cao. Hậu quả là tòa nhà tự sụp đổ từ những vị trí yếu nhất. Vụ nổ đã loại bỏ toàn bộ cơ cấu chỉ huy của đơn vị”.

Lính Pháp: Chưa kịp lĩnh bánh croissant ăn sáng!

Phóng to
Doanh trại lính dù Pháp trước và sau vụ nổ
Tướng Cardinal, chỉ huy trung đoàn 1 RCP lính dù Pháp vào thời điểm đó, thuật lại như sau trên website tưởng niệm đồng đội:

“Đó là một tòa nhà tám tầng cách tòa đại sứ Iran chỉ 800m, không điện, nước, mới được công binh Pháp “tẩy uế”, được che chắn bởi 5.000 bao cát, các lối vào đều được bảo vệ bằng kẽm gai... Đại đội 3, trung đoàn 1 lính dù Pháp, gồm 99 người, mới đến đóng tại đây hôm 23-9 trước đó.

6 giờ sáng 23-10, thượng sĩ thường vụ đại đội đánh thức đơn vị, sau một đêm yên bình. Trung sĩ Hartung cùng lính dù khác ra phố mua bánh croissant cho ngày chủ nhật. Thình lình một tiếng nổ ầm ĩ vang lên từ phía sân bay. Nhiều lính dù nhào ra lan can xem điều gì xảy ra. Tiểu đội trực gác lao về các vị trí chiến đấu.

Trung sĩ nhất Blanchot và hạ sĩ Guillemette đang trực trên nóc tòa nhà, báo cáo với đại úy đại đội trưởng rằng doanh trại của TQLC Mỹ vừa bị nổ sập. Ngay khi Guillemette gác điện thoại, cả tòa nhà rung mạnh. Các sàn nhà của mỗi tầng sụp xuống, rồi đến các bức tường. Cả tòa nhà tám tầng trở thành một núi xà bần cao 5m. Người ta gọi nhau í ới, chẳng hiểu điều gì xảy ra. Các binh sĩ đi lấy bánh croissant về không tin nổi vào mắt mình. Vụ tấn công khiến 58 lính dù thiệt mạng, chỉ còn 41 người sống sót”...

Điều tra của hạ viện Mỹ

Hai tháng sau vụ tấn công vào doanh trại TQLC, một ủy ban điều tra của Hạ viện Mỹ công bố báo cáo điều tra “Adequacy of U.S. Marine Corps Security In Beirut” phân tích các lỗ thủng trong hệ thống an ninh phòng thủ của đơn vị TQLC Mỹ trong vụ nổ này.

1/ Tại sao căn cứ TQLC lại nằm khơi khơi gần bãi đậu xe đến thế?

“Sân bay quốc tế Beirut có hai đường băng tạo thành hình chữ “V”. Các tòa nhà hành chính và kho đậu máy bay nằm trong chữ “V” này. Ba trong số các tòa nhà này trổ ra tòa nhà doanh trại của tiểu đoàn 1/8 TQLC Mỹ. Do đó, doanh trại này thay vì nằm ở vị trí hẻo lánh, lại nằm ngay giữa một sân bay quốc tế...

... Tướng Mead (tư lệnh TQLC tại Beirut lúc đó) phân trần rằng nhiệm vụ của ông lúc đó buộc ông phải cân nhắc cả một số yếu tố ngoại giao và chính trị chứ không chỉ quân sự thuần túy. Đầu tiên ông dự định cho đóng căn cứ trên một cao điểm cách sân bay khoảng 8km để có thể kiểm soát cả sân bay lẫn xa lộ Sidon nằm về phía đông sân bay. Xa lộ này giao với xa lộ dẫn đến thủ đô của Syria. Song, nếu TQLC Mỹ đóng ở đó thì các vị trí của quân đội lực lượng Israel đóng trên xa lộ Sidon sẽ nằm lọt trong tầm kiểm soát của TQLC Mỹ. Điều này sẽ khiến các phái Ả Rập cho là TQLC Mỹ trong lực lượng đa quốc gia gìn giữ hòa bình cùng chung phòng tuyến

với quân đội Israel... (tr.26)... Các hạ sĩ Linkkila, Farnan, Calhoun và Matthews khai rằng cũng đã có lo ngại đặc biệt về đoạn xa lộ chạy qua tòa nhà của đơn vị, nhất là khi con đường này dẫn đến tòa nhà của Hãng hàng không Trans Mediterranean Airlines, nên xe qua lại cũng nhiều”.

2/ Tại sao lính gác lại không nạp sẵn băng đạn vào súng?

“Cả năm nhân chứng (bốn hạ sĩ và một trung sĩ trực gác nêu ở trên) khai rằng tùy vị trí gác mà họ nạp đạn vào súng hay không. Ở các chốt số 6 và 7, tức trong bãi đậu xe, lính gác không được phép tra băng đạn vào súng. Còn ở các chốt số 1 và 2, về phía xa lộ, thì được phép, do lẽ xe cộ ra vào sân bay đông đảo. Song, hạ sĩ Farnain khai rằng lần cuối cùng gác ở chốt số 1 và 2, có cài băng đạn vào súng nhưng không lên đạn (tr.20).

Hạ sĩ DiFranco khai cũng thường nghĩ rằng khu vực bãi đậu xe là rất nguy hiểm dễ bị tấn công nhất, song họ chỉ có dây kẽm gai lùng nhùng để phòng thủ thôi. Hạ sĩ Linkkila thêm rằng họ không nghĩ sẽ bị tấn công xuyên qua lớp rào phòng thủ, mà là từ xe đậu trong bãi đậu xe mà thôi. Anh ta khai: “Trước đó một tuần, chúng tôi được nhắc nhở đến các vụ đánh bom bằng xe như đã từng xảy ra ở tòa đại sứ. Các chốt gác số 3,4, 5 và 5 A được giao nhiệm vụ quan sát xe cộ nào dừng lại trên con lộ dọc theo căn cứ chúng tôi. Song, do lẽ chẳng có xe nào đến gần cả nên cũng chẳng có gì để lo ngại”.

...“Đại tá Geraghty, chỉ huy lực lượng đặc nhiệm 62 TQLC, trả lời rằng binh sĩ được lệnh không tra băng đạn vào súng để tránh cướp cò súng trong khu vực này của sân bay! Ông cũng biện minh đơn vị của ông mang sứ mạng gìn giữ hòa bình, không được để ra vẻ như là một lực lượng chiếm đóng”(tr.36).

...“Rõ ràng là trong lời khai của mình, các chỉ huy quan tâm đến việc không tạo ra hình ảnh của một đơn vị chiến đấu trong một sứ mạng chiến tranh. Tướng Mead khẳng định: “Chúng tôi được lệnh tạo ra một bầu không khí hòa bình để dân chúng cảm thấy yên ổn, không cần sử dụng đến vũ khí hay gọi đến dân quân...” (tr.32).

3/ TQLC đã không rút được bài học gì từ vụ tấn công tương tự trước đó sáu tháng nhắm vào tòa đại sứ Mỹ tại Beirut khiến 63 người thiệt mạng sao?

Được biết vào ngày 18-4-1983 trước đó, một xe tải đã phát nổ ngay tại cổng vào tòa đại sứ Mỹ, làm sập toàn bộ khu vực mặt tiền khiến 63 người chết. Kết quả điều tra cho thấy chiếc xe tải mang đến 2.000 cân Anh thuốc nổ này là của tòa đại sứ Mỹ, đã bị đánh cắp trước đó một năm, được “trùm mền” cho đến khi hữu sự mới được đem ra sử dụng để... dễ dàng vào lọt đến cổng tòa đại sứ.

Tiểu ban điều tra ngao ngán kết luận: “Cả tướng Mead lẫn đại tá Geraghty đã chịu bó tay, theo lời họ, cũng tại vì sứ mạng gìn giữ hòa bình. Trong khi đại sứ chúng ta muốn biến dinh thự của mình thành một pháo đài, đại sứ Anh cũng thế, tổng thống Libăng cũng sống trong một pháo đài, phái bộ huấn luyện quân sự Mỹ cũng thế, thì chỉ lực lượng TQLC lại nghĩ rằng cần phải gương cao ngọn cờ “gìn giữ hòa bình”. Ủy ban thật sự không hiểu được từ đâu xuất phát tâm lý này, song rõ ràng là nó đã có từ trước khi TQLC đến đây”(tr.36).

***

Chỉ trong vòng 2 phút, 299 lính thủy quân lục chiến Mỹ và lính dù Pháp bị thiệt mạng.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận