Bác sĩ nội trú: Hành trình chỉ mới bắt đầu

AN LÂM 23/09/2025 15:41 GMT+7

TTCT - Trở thành bác sĩ nội trú là niềm mơ ước của mọi sinh viên y khoa.

Bác sĩ nội trú: Hành trình chỉ mới bắt đầu - Ảnh 1.

Do sớm yêu thích chuyên ngành tim mạch, nên từ thời sinh viên tôi đã thuộc lòng danh sách các bác sĩ nội trú tim mạch các khóa trên: cô Hương A (PGS Đinh Thị Thu Hương) là nội trú khóa 10, anh Hiếu và anh Thái (PGS Nguyễn Lân Hiếu và tiến sĩ Nguyễn Quốc Thái) nội trú khóa 20, anh Phong (PGS Phan Đình Phong) nội trú khóa 26… Năm 2007, sau một kỳ thi căng thẳng, tôi trở thành bác sĩ nội trú tim mạch khóa 31 của Đại học Y Hà Nội.

Thời đong đầy kỷ niệm

Chúng tôi coi bệnh viện là nhà, các bác sĩ nội trú khác như những anh chị em ruột thịt. Sáng cùng giao ban, trưa cùng ăn, chiều cùng trực buồng, tối lượn lờ khu cấp cứu, chen nhau làm thủ thuật, đêm cùng nhau thức trông bệnh nhân nặng tới sáng.

Cuối năm 2008, Hà Nội có trận lụt lịch sử, cuộc sống và sinh hoạt của nhiều người dân Hà Nội bị ảnh hưởng, nhưng "dân" nội trú bọn tôi vẫn ăn ngủ, làm việc trong bệnh viện như bình thường.

So với các học viên khác, bác sĩ nội trú thường được ưu tiên hơn về điều kiện học tập và làm thủ thuật. Sự "ưu tiên" đặc biệt nhất là mọi ca bệnh nặng nhất trong bệnh phòng đều phải nắm vững, bất kể có nằm giường mình điều trị hay không.

Mỗi sáng giao ban, thầy có thể chọn một ca bệnh bất kỳ, nội trú phải đứng lên báo cáo mà không cần nhìn bệnh án. Dù chỉ là "lính mới" trong bệnh viện, nhưng với sự hỗ trợ, bảo ban, nâng đỡ của các thầy cô và anh chị đi trước, lại thêm trui rèn liên tục với những ca lâm sàng khó, nên các bác sĩ nội trú có nhiều cơ hội tích lũy kinh nghiệm và nhanh chóng trưởng thành.

Nhớ những ca làm thủ thuật đầu tiên, có mấy anh chị lớn đứng xung quanh hướng dẫn, cổ vũ, thấy run nhưng cũng vững tâm vài phần. Nhớ các buổi tối thường trú, gặp đồng nghiệp than thở về một bệnh nhân nặng, để cả nhóm có dịp luận bàn sôi nổi.

Thực tế lâm sàng phong phú, bên cạnh khối lượng kiến thức khổng lồ, còn là bao điều khác mà một bác sĩ nội trú cần học, như cách bố trí thời gian biểu tối ưu, thực hành giao tiếp với bệnh nhân, cách giải thích tình trạng nặng cho gia đình người bệnh, cách… ngủ bất cứ lúc nào có điều kiện, cả cách nuốt trôi những thất bại đau lòng, để bình tâm đi tiếp trên con đường mình đã chọn.

Đến giờ tôi vẫn nhớ từng âm thanh nhỏ nhất của phòng cấp cứu tim mạch C3, tiếng tít tít đều đều của máy thở, tiếng lăn trở của những bệnh nhân khó ngủ, tiếng xe điện vận chuyển bệnh nhân nhập viện, cả những lao xao trong sáng sớm khi các bệnh nhân vừa thức giấc, dép khua loẹt quẹt ra nhà vệ sinh.

Bác sĩ nội trú: Hành trình chỉ mới bắt đầu - Ảnh 2.

Phòng trực của các bác sĩ nội trú tại Bệnh viện La Charité, tranh khắc gỗ theo bản vẽ của Gustave Doré (1860), hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử y học và bệnh viện của Assistance Publique – Hôpitaux de Paris.

"Giải thiêng" nội trú

Thời kỳ nội trú là khoảng không gian kỳ diệu của kẻ mới vào nghề, là bậc thềm ngập tràn ánh nắng đam mê, với những trải nghiệm chân thực không thể tìm thấy trong sách giáo khoa.

Trước nay vẫn thế, mỗi năm trường y chỉ tổ chức một kỳ tuyển sinh bác sĩ nội trú, mỗi bác sĩ chỉ có cơ hội thi duy nhất. Tuy vậy, so với thời của tôi, mô hình đào tạo bác sĩ nội trú hiện nay có một số thay đổi.

Thứ nhất là chỉ tiêu đào tạo nhiều hơn, mỗi khóa tốt nghiệp sẽ lấy khoảng 50-70% vào nội trú, trong khi trước đây, số lượng nội trú chỉ chiếm 10-20% toàn khóa. Thứ hai, các em có lựa chọn "mở", thay vì phải chốt chuyên ngành từ trước khi thi.

Các thay đổi này đem lại nhiều cơ hội hơn cho các tân bác sĩ, tránh tình trạng một người có năng lực nhưng lại trượt kỳ thi nội trú vì chuyên ngành mình chọn có quá nhiều "cao thủ", trong khi chỉ tiêu tuyển sinh ít ỏi. Đồng thời, tăng số lượng bác sĩ nội trú cũng đảm bảo nguồn nhân lực có tay nghề tốt cung cấp cho các bệnh viện trong cả nước, giúp mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao, hiện đại.

Tại các nước Tây Âu và Mỹ, mô hình đào tạo nhân lực y tế cũng như bác sĩ nội trú dần có sự chuyển đổi trong 100 năm qua, do nhu cầu thực tiễn. Quan niệm ban đầu về bác sĩ nội trú là để đào tạo tinh hoa, số ít, và không bắt buộc. Nhưng rồi, đào tạo bác sĩ nội trú dần trở thành đào tạo phổ cập và bắt buộc cho tất cả các bác sĩ sau khi tốt nghiệp trường y nếu muốn hành nghề khám, chữa bệnh.

Dù thế nào, bản chất của đào tạo bác sĩ nội trú chính là đào tạo nghề, với sản phẩm đầu ra là bác sĩ có tay nghề cao. Yêu cầu bác sĩ phải ăn ở, thường trú trong bệnh viện để gắn bó nhiều hơn với các bệnh nhân, ngày cũng như đêm, cũng chỉ nhằm hỗ trợ các bác sĩ trẻ tích lũy kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng thực hành lâm sàng, đảm bảo sau tốt nghiệp nội trú có thể hành nghề. Tiến trình đổi mới trong đào tạo bác sĩ nội trú vẫn đang tiếp tục, chắc chắn không dừng lại.

Tóm lại, tuy đầy vinh dự, nhưng "nội trú" vẫn là danh từ chỉ người bác sĩ đang trong quá trình học hỏi để tự hoàn thiện và tiến bộ hơn. Ngoài ra, "nội trú" không phải con đường duy nhất để trở thành một bác sĩ giỏi. Trở thành nội trú mới chỉ là cánh cửa đầu tiên mở ra một chặng đường thật sự gian nan và gai góc.

Các tân bác sĩ nội trú năm nay hẳn đều rất ý thức được điều đó, nên các em rất điềm tĩnh trước những ngợi khen của xã hội. Nghề y là học cả đời, chất lượng chuyên môn của người thầy thuốc đã trưởng thành không thể hiện qua danh vị, mà những kinh nghiệm và kiến thức tích lũy được, cùng lòng nhân ái và sự thấu cảm, mới tạo nên năng lực và bản lĩnh nghề nghiệp thật sự, để mỗi bác sĩ giúp ích nhiều nhất cho người bệnh.

Theo thông tin do Trường đại học Y Hà Nội công bố nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam, ngày 8-11-1902, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương Paul Doumer đã ký nghị định thư thành lập Trường Y khoa Đông Dương và bổ nhiệm bác sĩ Alexandre Yersin làm hiệu trưởng. Trường được đổi tên thành Trường Y khoa và Dược khoa Đông Dương (1913) rồi Trường đại học Y Dược khoa (1945).

Trường đại học Y Dược khoa cũng là trường đại học đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Giáo sư, bác sĩ Hồ Đắc Di là người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm chức vụ hiệu trưởng.

GS Hồ Đắc Di từng là bác sĩ nội trú chuyên ngành ngoại khoa tại Bệnh viện Cochin ở Paris. Các thầy Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Chung, Phạm Bửu Tâm cũng từng là nội trú của Trường Y Hà Nội thời Pháp thuộc.

Từ 1945 đến 1974, Trường đại học Y Dược khoa đã đào tạo và cử nhiều cán bộ y tế, sinh viên tham gia các chiến dịch cũng như chi viện cho chiến trường. Hệ thống đào tạo bác sĩ nội trú ở Việt Nam bị gián đoạn trong giai đoạn này.

Dù không chính thức tổ chức tuyển sinh, đào tạo nội trú, nhưng các giáo sư đầu ngành của Trường Đại học Y Hà Nội vẫn tâm huyết và tận tình chỉ dạy học trò theo phương thức đào tạo bác sĩ nội trú: thầy trực tiếp cầm tay chỉ việc, bác sĩ trẻ phải thường trú bệnh viện, tích lũy kinh nghiệm qua từng ca lâm sàng…

Năm 1973, sau nhiều thảo luận về nhu cầu đào tạo chuyên sâu để phát triển ngành và đáp ứng mục tiêu bổ sung bác sĩ giỏi cho các bệnh viện, Trường đại học Y Hà Nội đã có kiến nghị gửi Bộ Y tế đề nghị thí điểm đào tạo nội trú các bệnh viện. Khóa bác sĩ nội trú bệnh viện đầu tiên của trường được tuyển sinh vào năm 1974, với 20 chỉ tiêu, các chuyên ngành nội, ngoại, tai mũi họng, thần kinh, truyền nhiễm. Tới năm 2025 là khóa thứ 50.

Hình thức đào tạo bác sĩ nội trú bệnh viện xuất phát từ Cộng hòa Pháp. Năm 1802, Napoleon Bonaparte ký sắc lệnh thành lập khu nội trú (Internat/Salles de Garde) phục vụ việc đào tạo bác sĩ nội trú bệnh viện (internes des hopitaux).

Sau đó, một kỳ thi tuyển bác sĩ nội trú đã diễn ra, trong số 64 người dự tuyển chỉ có 24 người được lựa chọn. Tinh thần của mô hình bác sĩ nội trú này là các thầy thuốc túc trực 24/24h tại bệnh viện để khám, theo dõi, điều trị bệnh nhân, tích cực bổ sung kiến thức và trao đổi chuyên môn với các chuyên gia hàng đầu.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận