TTCT - Gần 35 năm sau Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991, Nỗi buồn chiến tranh vẫn chưa phải là một "Chuyện xưa kết đi được chưa?" trong lòng xã hội. Nhưng có một lớp nhà văn vẫn đang sáng tạo. Năm sau, chúng ta sẽ kỷ niệm 40 năm Đổi mới. 40 năm ấy cũng bằng quãng thời gian để có Một thời đại trong thi ca và Nhà văn Việt Nam của tiền chiến. Và 40 năm ấy đủ để có một thời đại mới trong văn chương Việt sau 1986.1. Trong 40 năm ấy, những thế hệ nhà văn, nối tiếp nhau, mở ra những chiều kích khác cho văn chương Việt. Nhiều nhà nghiên cứu nói về một đỉnh cao của "mùa xuân Hà Nội", giai đoạn cao trào đầu tiên của văn học Đổi mới với cái mốc 1991 với Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Lê Lựu… Nhưng cũng trong những năm 1990 ấy, có Hồ Anh Thái, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Triều Hải, Phan Thị Vàng Anh… Lớp nhà văn ấy tiếp tục dòng chảy của Đổi mới sau năm 1991: sự tìm kiếm kết nối với hậu hiện đại của Hồ Anh Thái; vệt tác phẩm hiện thực huyền ảo của Nguyễn Bình Phương; cái nhìn mới về giới của Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dư Thị Hoàn; cuộc tìm kiếm một cấu hình mới cho thơ Việt từ Ngựa biển đến Sự mất ngủ của lửa… chuẩn bị cho những chuyển động dữ dội của thơ ca Việt đầu những năm 2000. Và khó mà quên được những gì Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều hay Lê Ngọc Trà đã phải chịu đựng cho những đổi mới của họ, như những gì mà Bảo Ninh hay Nguyễn Huy Thiệp đã phải gánh.Có thể nói, từ những năm 1990 ấy, văn chương đã tiến triển trong một cuộc kiếm tìm thẩm mỹ khác, vượt ra khỏi "mùa xuân Hà Nội". Không ít nhà văn của giai đoạn đó vẫn tiếp tục là những tác gia quan trọng của văn học đương đại 10 năm gần đây với hành trình viết và đổi mới không ngừng nghỉ.Cùng với việc xuất bản lại Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Cung, các tác phẩm được dịch đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài cuối những năm 1990, những thể nghiệm của lớp nhà văn sau "mùa xuân Hà Nội" được tiếp nối bằng làn sóng thứ ba của văn chương Việt - những người sáng tác chủ yếu sau năm 2000.25 năm qua, văn chương Việt Nam đương đại được tạo nên bởi nhiều thế hệ, từ thế hệ Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Vũ Thành Sơn, Vĩnh Quyền, Tạ Duy Anh, Inrasara, Lê Anh Hoài, Nguyễn Viện, Lưu Vĩ Lân… thế hệ Nguyễn Vĩnh Nguyên, Trần Nhã Thụy, Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phạm Duy Nghĩa… đến thế hệ của Lê Khải Việt, Huỳnh Trọng Khang, Nguyễn Khắc Ngân Vi, Hiền Trang, Đinh Phương, Trần Lam Vi… 25 năm này, có lẽ đã định hình một thứ văn chương khác với Nỗi buồn chiến tranh và Tướng về hưu: Cơ hội của Chúa, Đi tìm nhân vật, Mình và họ…2. Với nhiều người thuộc lớp "sau 2000" đó, hành trình sáng tạo của họ vẫn đang diễn ra. Tuyệt không dấu vết của Nguyễn Việt Hà là một cuộc tìm kiếm một chiều kích khác vượt ra ngoài những chân dung đô thị vừa nhuốm màu hiện sinh vừa mang mỹ học Công giáo trong Cơ hội của Chúa. Hành trình của Nguyễn Bình Phương từ Những đứa trẻ chết già đến Mình và họ và Một ví dụ xoàng là một cuộc hành trình đi ra ngoài hiện thực huyền ảo để kiến tạo một cổ điển. Từ những truyện ngắn về con người đô thị đến Ngôi nhà trong những đám mây và Cơn mưa bội bạc là một sự theo đuổi có chủ đích một thứ văn chương đi vào những chấn thương của con người trong lịch sử và để đến Sóng đồng bằng là một cuộc đối diện lịch sử và những phức tạp của tiến trình kiến tạo quốc gia. Có thể đọc được một nỗ lực của Vĩnh Quyền khi ông dừng mạch viết về lịch sử và gia đình hoàng tộc được dựng lên từ Mạch nước trong, Vầng trăng ban ngày qua Mảnh vỡ của mảnh vỡ, tìm một lối mới trong Trong vô tận, đối diện các vấn đề sinh thái và tộc người trong Thương ngàn. Và những thể nghiệm hậu hiện đại của Inrasara và Lê Anh Hoài khi nối kết với những vấn đề về căn tính tộc người, muốn vượt ra khỏi những giới hạn kỹ thuật giản đơn. Họ có lẽ muốn xây đắp một cấu hình khác của văn chương Việt, và ta có thể thấy sự khác biệt ấy khi đặt diễn ngôn về chiến tranh của Mình và họ bên cạnh diễn ngôn về chiến tranh trong Nỗi buồn chiến tranh: một bên là tiếng nói của một người trong cuộc kể lại "cuộc chiến tranh của tôi" với sự hòa trộn chủ nghĩa anh hùng không thể quên và chấn thương tâm lý không thể chữa lành, một bên là tiếng nói của một kẻ ngoại cuộc về một cuộc chiến tranh như là một câu hỏi chưa có trả lời.3. Và nếu nhìn vào một lớp nhà văn mới, tạm gọi là làn sóng thứ ba sau năm 2000, độc giả hẳn vẫn sẽ thấy nổi lên một số gương mặt. Lớp nhà văn ấy có Tràng An, Nguyễn Khắc Ngân Vy, Lê Khải Việt, Trần Lam Vy, Đinh Phương, Hiền Trang, Huỳnh Trọng Khang, Nguyễn Hải Nhật Huy… Nguyễn Vĩnh Nguyên tìm lối thể nghiệm hậu hiện đại: kết nối hư cấu và khảo cứu, kể những tiểu tự sự về một thành phố và một nền văn hóa từng có, hiện hữu như một giấc mơ. Đọc cách Tràng An, Lê Khải Việt, Huỳnh Trọng Khang hay Đinh Phương viết về lịch sử hay chiến tranh Việt Nam, ta thấy họ tìm cách biến khảo cứu thành tri thức, biến tri thức thành những trải nghiệm văn hóa. Điều được Nguyễn Bình Phương mở ra đã được Lê Khải Việt tiếp nối bằng cách đặt những sử liệu trong một không gian hư cấu để mở ra những cái nhìn đa chiều về chiến tranh, nơi vẻ đẹp của ký ức được bảo tồn, những tàn bạo được phơi bày, những ám ảnh dai dẳng làm nhiễm độc những thế hệ hậu chiến, và nơi cuộc chiến được nhìn từ nhiều phía, phi giáo điều. Đọc phê bình nghệ thuật của Hiền Trang trong Tại sao ta yêu, có thể thấy cô đang cố gắng kiến tạo một nền tảng lý luận về thực hành viết một cách vững vàng, trên cùng một mặt bằng với các nhà văn đương đại trên thế giới.Với thế hệ này của văn chương Việt, cái khung "thế sự đời tư" mà các nhà nghiên cứu áp cho văn học Việt Nam đầu Đổi mới đã trở nên không còn tương thích: tác phẩm của họ đi nhiều hơn vào những cuộc chất vấn đau đớn, dò tìm căn nguyên cho những vấn đề của con người đương đại, vượt qua các biên giới.Gần 35 năm sau Giải thưởng Hội nhà văn năm 1991, Nỗi buồn chiến tranh vẫn chưa phải là một "Chuyện xưa kết đi được chưa?" trong lòng xã hội. Nhưng có một lớp nhà văn vẫn đang sáng tạo. Thực hành văn chương của họ nhiều khi đứng ngoài giải thưởng, đứng ngoài những hội thảo, diễn đàn dành cho "nhà văn trẻ". Nhiều cuốn sách của họ thậm chí không được truyền thông, nhưng họ vẫn bền bỉ viết. Một số tác phẩm của họ bắt đầu vươn ra thị trường văn chương thế giới. Và với văn chương của họ, để đối diện với truyền thông của những thuật toán, cần một thứ phê bình ở vị trí của những người đồng hành và đối thoại. Tags: Nhà văn Việt NamVăn họcVăn học Việt namPhê bình văn họcNhà văn
Ngưỡng chịu thuế: đường dài đi tới sự công bằng NGUYỄN NHẬT KHANH (Trường ĐH Kinh tế - Luật) 10/12/2025 1706 từ
Rie Qudan: "Tôi muốn suy tư về cái đúng đắn trong chiều không - thời gian của tiểu thuyết" ZÉT NGUYỄN 09/12/2025 2822 từ
Sửa đổi nghị quyết thí điểm về cơ chế đặc thù cho TP.HCM: Bước tiến nhỏ cho một khát vọng lớn. TS Nguyễn Sĩ Dũng 09/12/2025 1519 từ
Tối 12-12, UBND TP.HCM họp khẩn, chuẩn bị triển khai Nghị quyết 98 VIỄN SỰ 12/12/2025 Tối 12-12, Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Văn Được đã chủ trì cuộc họp triển khai Nghị quyết 98 vừa được Quốc hội thông qua ngày 11-12.
Đêm không ngủ cho Ngày của Phở lớn nhất trước nay QUANG ĐỊNH 12/12/2025 Nhiều nồi nước lèo phở đang sôi sùng sục, hành đã rửa sạch, rau thơm đâu ra đó. Tất cả sẵn sàng cho Ngày của Phở vào sáng mai 13-12, tại khu vực thương xá Tax (cũ), phường Sài Gòn, TP.HCM.
Lịch thi đấu ngày 13-12 của đoàn thể thao Việt Nam tại SEA Games 33 HUY ĐĂNG 12/12/2025 Sau liên tiếp những ngày bùng nổ của điền kinh, bơi lội, thể thao Việt Nam hứa hẹn sẽ gây ấn tượng ở các môn đấu võ đối kháng trong ngày thi đấu 13-12 tại SEA Games 33.
Thủ tướng Thái Lan điện đàm với ông Trump về xung đột với Campuchia THANH HIỀN 12/12/2025 Tối 12-12, Thủ tướng Thái Lan Anutin Charnvirakul cho biết ông vừa có cuộc điện đàm với Tổng thống Mỹ Donald Trump.