"Đất đai" của Simon Winchester: Từ Âu Mỹ nhìn về địa bạ Việt Nam

PHẠM HOÀNG QUÂN 11/03/2025 09:30 GMT+7

TTCT - "Đất đai" của Simon Winchester là một công trình nghiên cứu độc đáo.

Tác giả dắt người đọc đi từ lịch sử đo đạc, vẽ bản đồ địa hình, bản đồ quy hoạch đất đai, về sự chia tách và sở hữu đất đai, về tính pháp lý đa dạng ở nhiều xứ sở hay từng quốc gia trên phạm vi toàn cầu.

Mỗi người đọc đều sẽ cảm nhận được đâu đó có những tình huống dường như quen quen đã từng trải qua trong đời hay lịch sử dòng họ mình, hoặc từng chứng kiến.

Đất đai của Simon Winchester: Từ Âu Mỹ nhìn về địa bạ Việt Nam - Ảnh 1.

Bản đồ (trích) lưu vực hạ lưu sông Tiền, thành tỉnh Vĩnh Long ở bờ nam và thành tỉnh Định Tường (ở Mỹ Tho) ở bờ bắc. Bản đồ do người Pháp vẽ lại trên cơ sở bản đồ triều Nguyễn, thay địa danh chữ Hán Nôm bằng chữ Latin. Dấu vết để nhận biết sự thừa tiếp là tư duy địa lý còn nặng cảm tính, diễn tả dòng sông lớn hơn rất nhiều so với thực địa. Nguồn: Thư viện Quốc gia Pháp. Carte de la Basse Cochinchine 1861 (Bản đồ Nam Kỳ 1861)

Với cách diễn đạt hấp dẫn, cuốn sách thành công có lẽ bởi Winchester, vốn là nhà báo, rất thành thục cách chuyển hóa những tư liệu thuộc dạng số liệu khô cứng thông qua và gắn kết với nhiều thân phận cụ thể, từ điền chủ lớn nhỏ, tới tù trưởng sắc tộc nổi danh trong lịch sử người da đỏ (châu Mỹ bản địa) hay Maori, và cả chuyện dài về một người di cư với đất đai ít ỏi. 

Nói khác hơn thì đây là phép chuyển hóa nghiên cứu khoa học trở thành những câu chuyện gần như văn chương.

Học giới Việt Nam có thể tiếp nhận như thế nào

Tốt nghiệp ngành địa lý Đại học Oxford, tác giả khai thác cơ sở dữ liệu chủ yếu từ nhiều nguồn lịch sử, cộng với quá trình thực địa ở khắp châu Âu, Mỹ, Phi, dù còn hơi thiếu vắng mảng sử liệu châu Á, nhất là với đất nước rộng lớn và có lịch sử quản lý đất đai lâu đời và phức tạp là Trung Quốc.

Việt Nam là nước nông nghiệp, nên đất đai là mối bận tâm không chỉ của nông dân mà còn là đề tài quan trọng trong nghiên cứu khoa học, gồm nghiên cứu lịch sử. Đọc xong cuốn Đất đai, tôi chợt nhớ đến cuốn Trước cách mạng (Before the Revolution - The Vietnamese Peasants Under the French) của cố giáo sư Ngô Vĩnh Long (bản tiếng Anh, in năm 1969). 

Trong lần ký tặng sách cho tôi năm 2013, ông viết thêm: "Người nông dân đã hy sinh bao xương máu, nhưng sao họ vẫn chưa đổi đời được? Sao lịch sử vẫn trước sau như một đối với họ?". Lời cảm thán này của ông có thể là một gánh nặng mà ông đã gánh, và tôi kể ra điều này ở đây như một mưu đồ, tìm ai đó bằng cách nào đó có thể chia sẻ với ông.

Nghiên cứu về chế độ ruộng đất trong lịch sử trước giờ có rất nhiều công trình, hoặc nằm trong những bộ sử tổng quan, hoặc thành những chuyên đề, nổi bật có thể kể như Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ của Pierre Gourou, hay tuyển tập Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam của giáo sư Trương Hữu Quýnh, hay Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu.

Những học giả kể trên đều đã qua đời, nghiên cứu của họ đều có tính tổng quát nền tảng, nhưng hầu như chỉ được biết đến trong giới nghiên cứu. 

Tôi nghĩ những công trình tương tự như vậy về sau này, nếu mà có sự xuất hiện nhiều và cụ thể hơn những thân phận con người, cường hào ác bá cũng được, điền chủ thiện lành cũng được, hay những nông dân nghèo sở hữu chừng vài chục thước đất chẳng hạn, sản nghiệp và sanh kế của họ gắn với đất và chịu tác động ra sao trong những thời điểm lịch sử, từ những biến cố chính trị lớn đến lề thói cá biệt ở thôn xã - như cách mà Winchester kể lể dẫn dắt - ắt sẽ dễ được đón nhận bởi đông đảo độc giả trong nước.

Tản mạn về đất đai canh tác ở Việt Nam thời Nguyễn

Đất đai cũng kể rất nhiều chuyện về đất nông nghiệp, và quản trị đất đai, vốn là mối quan tâm chính của các chế độ hàng nghìn năm qua. Chuyện đó khiến tôi nhớ tới những công trình địa bạ thời Nguyễn mà vì công việc, tôi được tiếp cận khá nhiều.

Địa bạ toàn quốc được lập trong thời Gia Long và Minh Mạng, lần lượt từ năm 1805 đến năm 1837, một số đất vùng cao được bổ túc vào thời Thiệu Trị, Tự Đức. Vùng Nam kỳ lục tỉnh cơ bản hoàn thành địa bạ vào năm 1836.

Đất đai của Simon Winchester: Từ Âu Mỹ nhìn về địa bạ Việt Nam - Ảnh 2.

Ảnh: M.N.

Với quy định khá rõ về phép mô tả từng thửa ruộng vườn, địa bạ có thể coi như một bản đồ đất (thực canh tác) bằng văn tự. 

Thời Nguyễn tuy chưa đủ trình độ đo đạc để vẽ thành bản đồ đất đai, nhưng qua nguồn địa bạ có thể tạm phục dựng phần nào vị trí và diện tích đất ruộng vườn đương thời. Nay thì đây là khối di sản đáng quý trong nghiên cứu lịch sử ruộng đất và nhiều mặt khác.

Liên quan cuốn Đất đai, đến những câu hỏi ẩn chứa tính nhân văn trong ấy, có thể mượn hai câu chuyện tôi đọc được trong Địa bạ 1836.

Địa bạ Biên Hòa có chép một trường hợp ở thôn Long Thới (tổng Phước Hưng Hạ, huyện Phước An, nay là tỉnh Bà Rịa), của ông Nguyễn Cửu Đặng, người huyện Tống Sơn, Gia Miêu Ngoại Trang (nay thuộc Thanh Hóa). 

Địa bạ thôn chép rằng "ông đơn trưng (xin nộp thuế) hồi tháng 2 năm nay (1836), ruộng nguyên 7 sào, sau đo đạc ra hơn 6 mẫu 8 sào". Trong các tập địa bạ toàn huyện Phước An, duy nhứt chỉ thấy địa bạ Long Thới thôn, dùng từ "đơn trưng" (xin nộp thuế) đối với đất ruộng ông Nguyễn Cửu Đặng. Tuy nhiên, việc đăng ký nộp thuế chỉ trước lúc lập bạ có 3 tháng, và sau đo đạc thì diện tích tăng lên gần 10 lần.

Dòng dõi Nguyễn Cửu rất nổi tiếng, vào buổi đầu khai phá đất đai phương Nam, nhiều tướng lãnh họ Nguyễn Cửu lưu tên trong sử (như Nguyễn Cửu Đàm đắp lũy Bán Bích ở Sài Gòn), đất đai của hậu duệ ở xứ Vũng Gù (nay thuộc tỉnh Long An) khá nhiều và cũng thành danh "ruộng châu phê" (ruộng được vua chuẩn ban).

Riêng về ông Nguyễn Cửu Đặng, địa bạ thôn Nhơn Thạnh, tổng Thuận Đạo, huyện Thuận An, tỉnh Gia Định (nay thuộc tỉnh Long An) chép: "Tự điền [ruộng thờ cúng], trước đây khai 1 sở của Chánh thống Nguyễn Cửu Vân, nay đo ra thành 327 mẫu 7 sào 9 thước, phân 5 sở, [hạng] thảo điền, cháu là Nguyễn Cửu Đặng được thừa kế". 

Có điều khó hiểu là, ông Đặng đã sở hữu diện tích đất "khủng" hơn 327 mẫu ở Vũng Gù, sao lại "đơn trưng" thửa ruộng chỉ có 6 mẫu ở thôn Long Thới huyện Phước An?

Lập sổ sách ghi chép ruộng đất vốn là điều quan tâm hàng đầu của các chế độ cai trị trong lịch sử, nắm tình hình đất đai là để quản lý thuế khóa và qua đó còn biết được phạm vi cương thổ.

Sử nước ta chép việc liên quan sớm thấy vào thời Lý Thái Tổ (1010-1028), năm Quý sửu (1013): "Tháng 2, Định ra các lệ thuế trong nước: (1) chằm hồ ruộng đất; (2) tiền và thóc về bãi dâu…", đặt ra lệ thuế tức phải trên cơ sở ghi chép tình hình ruộng đất sơ bộ.

Đời Lý Nhân Tôn, thấy năm Nhâm thân (1092): "Định sổ ruộng, thu tô mỗi mẫu 3 thăng", có thể thấy rõ việc lập sổ bạ đã định hình. Việc lập sổ đất đai (địa bạ), sổ dân đinh (đinh bạ) được kế tục qua các triều đại, vốn là đầu mối cho việc điều độ kinh tế và binh bị quốc gia.

Một chuyện khác, tôi nhân làm công việc dịch địa bạ cho một số dự án nghiên cứu lịch sử địa lý ở vài địa phương, nhân đó cũng đọc một số địa bạ liên đới quê nhà. Xã tôi ở tên Mỹ Đức Tây, thời Nguyễn gọi là thôn, tên gọi và địa giới từ lúc lập thôn khoảng năm 1808 đến nay vẫn vậy, tức thuộc số thôn may mắn không thay tên đổi giới. 

Nhưng ngôi đình của thôn đã đổ nát trong chiến tranh, không còn cổ vật hay giấy má chữ nghĩa gì lưu lại. Thời may đọc ghi chép trong Địa bạ 1836, mới biết, ông Đinh Công Tuế đã hiến sở đất 1 mẫu (quy ra đơn vị nay khoảng 5.000m2, tức 5 công) sung công, làm nơi thờ Thần.

Địa bạ 1836 cũng chép rõ "đất thuộc sở hữu đình thờ Thần" riêng biệt với các sở đất cá nhân khác, và ghi thêm nguồn gốc đất của ông Đinh Công Tuế để người sau biết. 

Trong địa bạ thấy ông Tuế không có sở đất nào khác ngoài sở đất 1 mẫu hiến cho đình, nên có thể hiểu rằng ông không có con thừa kế, và đã hiến toàn bộ đất đai huê lợi cho đình để nhờ nơi nhang khói. Tư liệu này có thể giúp ích cho Ban quý tế Đình Thần trong việc tìm hiểu lai lịch ngôi đình, và cũng để kính lễ với tên họ rõ ràng một tiền nhân đã góp đất đai cho đình làng.

Hai chuyện kể trên khiến tôi nghĩ rằng, tham vọng sở hữu đất đai như ông Nguyễn Cửu Đặng hay hiến tặng đất đai như ông Đinh Công Tuế đều là quyền riêng tư, tùy vào cách hành xử của mỗi cá nhân. 

Người sau có thể phân tích rằng chuyện công thần phe phái nhằm xí thêm vài mẫu đất cách trở núi sông như ông Đặng là không hay ho gì, nhưng chê trách cũng chưa chắc đã đúng. Còn khúc vĩ thanh về sở đất 5.000m2 ông Tuế hiến cho đình, tồn tại nguyên vẹn diện tích qua hơn 150 năm, nhưng nay chỉ còn vẻn vẹn 1.000m2 khuôn viên và nền ngôi đình, tức 4/5 diện tích đã bằng cách nào đó đã thay tên đổi chủ rồi. 

Ngày nay thì nếu lưu vực sông Tiền ngưng sạt lở ì ầm nay sông này mai rạch nọ thì cơ may ngôi đình mới còn, mới phần nào lưu giữ chút hảo tâm của ông Tuế dành cho đời sau. Ý này thì lại giống ý đất đai đang chìm xuống vì biến đổi khí hậu của cuốn Đất đai.

Hai câu chuyện này, tôi kể mà trong đầu cứ lởn vởn câu hỏi "Một người cần bao nhiêu đất đai?" trong câu truyện ngụ ngôn của Leo Tolstoy mà tác giả Đất đai kể lại, chuyện khá dài và kết cục té ra câu trả lời là "Đất đẹp, tối, và sâu, có diện tích chính xác là 1,8m nhân 0,9m".

Cũng nhắc lại rằng, trong Đất đai, Simon Winchester cho rằng tất cả mọi hành vi đối xử với đất đai như phân lô, rào đất, trồng trọt, bỏ hoang... đều tùy thời tùy nơi mà có mặt đúng sai, đều có thể niệm tình, chỉ riêng việc dùng mặt đất để chứa vũ khí hạt nhân là không thể tha thứ.■


Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận