Độc lập và thế giới hậu thuộc địa

NGUYỄN THÀNH TRUNG 01/09/2025 08:01 GMT+7

TTCT - Tháng 9 này đánh dấu một cột mốc quan trọng với đất nước Việt Nam hiện đại: kỷ niệm 80 năm ngày Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình.

a - Ảnh 1.

Ảnh: Suedostasien.net

Một khoảnh khắc đã vang vọng khắp Đông Nam Á, nơi những làn gió đổi thay lúc đó đang thổi mạnh, quét qua chủ nghĩa thực dân ở khu vực.

Với các quốc gia non trẻ ở Đông Nam Á, Thế chiến II kết thúc mới là khởi đầu thực sự cho cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết. Nó cũng là bước ngoặt quan trọng không thể đảo ngược của quá trình giải phóng thuộc địa, phi thực dân hóa và sự ra đời của các quốc gia độc lập mới trong khu vực.

Các thập kỷ sau Thế chiến II chứng kiến sự dịch chuyển từ từ ở Đông Nam Á khi các cường quốc thực dân, suy yếu bởi cuộc xung đột toàn cầu, dần buộc phải buông bỏ quyền kiểm soát. 

Từ quần đảo Indonesia đến bán đảo Mã Lai và các quốc gia trên Đông Nam Á lục địa, một kỷ nguyên mới của quyền tự quyết dân tộc mở ra. Tuy nhiên, con đường và quá trình phi thực dân hóa không giống nhau, để lại những dấu ấn không thể phai mờ trên bức tranh đa dạng đầy sắc màu của các quốc gia Đông Nam Á mà chúng ta thấy ngày nay.

Bức tranh khảm đầy màu sắc

Trong quá trình du học gần 9 năm của mình và sau đó là một loạt chuyến trao đổi học thuật, tham gia hội thảo và kết nối nghiên cứu, tôi luôn cảm thấy mình có sự gắn bó cực kỳ thân thiết với những người bạn Đông Nam Á ở khắp nơi. 

Khi bước vào một khán phòng đầy đủ quốc tịch từ khắp nơi trên thế giới, nếu tôi bắt gặp một cái tên xuất phát từ một quốc gia Đông Nam Á bất kỳ, tôi luôn có một thôi thúc hết sức tự nhiên là chủ động bắt chuyện với người đó.

Một cảm giác kết nối mạnh mẽ mà tôi cảm nhận không đơn thuần là kết quả của những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên hay sự gần gũi về mặt địa lý. Có thể nói đằng sau những ngôn ngữ và lá cờ quốc gia riêng biệt, người dân Đông Nam Á chia sẻ một ADN văn hóa và lịch sử sâu sắc. 

Đó là hệ quả trực tiếp của một quỹ đạo lịch sử chung, cũng như trải nghiệm đầy biến động khốc liệt với chủ nghĩa thực dân.

Các đồng nghiệp khu vực của tôi đại diện cho bức tranh khảm đầy màu sắc của Đông Nam Á. Chúng tôi hay tụ họp lại với nhau trong các hội thảo, hội nghị, hay đơn giản chỉ là chuyện phiếm trong một bữa trưa hoặc buổi tối sau đó. 

Những cuộc chuyện trò như vậy luôn chuyển từ các luận điểm học thuật sang những câu chuyện mang tính cá nhân sâu sắc. Tôi đã lắng nghe mê mải một nhà xã hội học người Philippines từ Đại học Ateneo de Manila, người sau này rất thân thiết với tôi do cùng nhận chung học bổng của tổ chức United Board, kể về ảnh hưởng lâu dài của sự cai trị của Tây Ban Nha và Mỹ lên đất nước Philippines. 

Nhờ anh mà tôi biết họ của đa số người Philippines có nguồn gốc từ Tây Ban Nha, và anh cũng giảng giải cho tôi về "chính trị gia tộc" ở Philippines hiện nay đã chia rẽ người dân đất nước này ra sao.

Dù có muốn hay không, di sản thuộc địa đã định hình rất nhiều thứ ở Đông Nam Á, từ ngôn ngữ đến thể chế chính trị. 

Một nhà chính trị học người Thái từ đại học nổi tiếng Chulalongkorn đã giải thích cho tôi về ảnh hưởng trước đây của đế quốc Anh lên cấu trúc xã hội chính trị của Thái Lan, quốc gia chưa bao giờ bị thực dân hóa chính thức, nhưng bản sắc của họ được hình thành dưới cái bóng của các cường quốc.

Từ một anh bạn tiến sĩ người Malaysia gốc Ấn, tôi lại được biết về tình trạng chủng tộc và tôn giáo phức tạp của đất nước ấy, bao gồm các sắc tộc chính như người Mã Lai, người Hoa, người Ấn. 

Tôi cũng hiểu hơn dự án không ngừng nghỉ của Chính phủ Malaysia nhằm tạo ra một bản sắc dân tộc từ những sợi chỉ rời rạc này. Quá trình "xây dựng quốc gia" ở Malaysia là một sự cân bằng phức tạp giữa việc quản lý căng thẳng sắc tộc trong một khuôn khổ dân chủ kế thừa từ người Anh. 

Tôi nhớ có lần anh bạn kể đã sẵn sàng mua vé bay từ Hong Kong về Malaysia chỉ để tham gia một cuộc bầu cử, và ngày hôm sau bay trở lại Hong Kong.

Một anh bạn khác là nhà tư vấn chính sách ở một viện nghiên cứu Indonesia đã kể cho tôi về những thách thức to lớn của chính phủ nước này khi quản lý 17.000 hòn đảo và dân số 275 triệu người. Với họ, đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu, mà là chuyện sống còn. 

Sự hòa thuận giữa người Thiên Chúa giáo trong một xã hội Hồi giáo cũng là một điều thú vị. Chúng tôi vẫn thường xuyên liên lạc qua WhatsApp về những cuộc khảo sát quan điểm của người dân Đông Nam Á về các chủ đề khác nhau mà viện nghiên cứu của anh thực hiện.

Rồi còn anh bạn nhà báo người Campuchia mà tôi biết từ hơn 10 năm trước với những cuộc trò chuyện trầm lắng. 

Các câu chuyện trao đổi rốt cuộc cũng quay lại chạm đến những vết sẹo sâu sắc do Khmer Đỏ để lại. Một dân tộc đang xây dựng lại bản sắc của mình, không chỉ sau khi giành độc lập từ thực dân Pháp, giống như Việt Nam, mà còn sau một vết rạn nứt tàn bạo chỉ chưa đầy 50 năm.

Lịch sử sống động

Những cuộc trò chuyện này không chỉ mang tính học thuật. Chúng là một phần lịch sử sống, mà chúng ta đang thở, về cuộc đấu tranh của riêng từng nước, và chung của cả khu vực, với quá khứ của mình. 

Di sản của các đế quốc - người Anh ở Malacca, người Hà Lan ở Batavia, người Pháp ở Đông Dương, người Tây Ban Nha ở Philippines - vẫn còn hiển hiện. 

Ngôn ngữ, món ăn, hệ thống pháp luật và cả kiến trúc ngoài đường phố đều là những lời nhắc nhở rằng quá trình phi thực dân hóa không phải là một sự chia cắt sạch sẽ, dứt khoát, mà là một cuộc "đàm phán" không ngừng nghỉ; và độc lập không phải là một cột mốc, mà là cả một công cuộc tranh đấu lâu dài.

Tương tự, "phi thực dân hóa" ở Đông Nam Á không phải là sự kiện duy nhất - mà là một tập hợp những trải nghiệm dân tộc độc đáo. 

Năm 1945 lịch sử mang đến cơ hội cho các quốc gia Đông Nam Á, nhưng những con đường sau đó được quyết định bởi nhiều yếu tố: chủ nghĩa dân tộc, lựa chọn chiến lược của các thế hệ lãnh đạo bản địa và tác động của chính trị cường quốc.

Một số quan điểm cho rằng vẫn tồn tại một "tâm lý hậu thuộc địa" trong một bộ phận người dân khu vực, thể hiện ở việc họ vẫn coi trọng những giá trị và tư tưởng phương Tây hơn là của chính dân tộc mình. 

Do đó, quá trình hậu thuộc địa ở các quốc gia còn non trẻ này phải tiếp tục đối mặt với nhiệm vụ to lớn là xây dựng bản sắc riêng và tạo dựng các thực thể quốc gia gắn kết từ những nhóm sắc tộc, ngôn ngữ và tôn giáo thường rất khác biệt. 

Di sản của chủ nghĩa thực dân vẫn còn hiện hữu khi vẫn còn tồn tại các ranh giới đã được những người cai trị trước đó vạch ra một cách tùy tiện.

Lịch sử cho thấy các chính quyền thuộc địa thường cố tình làm trầm trọng thêm chia rẽ xã hội sẵn có để duy trì quyền kiểm soát; do đó hay để lại những xã hội phân mảng cho đến ngày nay. 

Những đường biên giới tùy tiện và chia rẽ sắc tộc của thời thuộc địa vẫn là nguồn cơn cho các phong trào ly khai và xung đột nội bộ, từ miền nam Philippines đến vùng cao Myanmar, như một lời nhắc nhở rằng nỗi đau của sự chia cắt cưỡng bức vẫn còn rất sâu sắc.

Hơn nữa, các cơ cấu kinh tế lạc hậu được áp đặt trong thời kỳ thuộc địa, vốn hướng tới việc khai thác tài nguyên vì lợi ích của chính quốc, đã đặt ra những thách thức to lớn về phát triển đất nước cho các quốc gia trong khu vực. 

Do đó, ngay cả sau khi giành được độc lập về chính trị, quá trình "phi thực dân hóa kinh tế" vẫn còn dài và khó khăn. Các chính phủ mới trong khu vực đều phải đối mặt với những thách thức to lớn trong nỗ lực tạo dựng một nền kinh tế quốc gia đúng nghĩa.

Hành trình phi thực dân hóa và xây dựng quốc gia đó sẽ còn dài. Để xây dựng được bản sắc dân tộc, thời gian không thể tính bằng năm hay thập kỷ, hành trình đó sẽ phải trải qua những cuộc đấu tranh lịch sử, những sắc thái văn hóa và khát vọng kinh tế, đi kèm không ít bài học, cả đau thương nữa, để mỗi dân tộc hiểu hết những phức tạp của quá trình phát triển hậu thuộc địa.

Trải nghiệm cá nhân đã dạy cho tôi rằng bản sắc của Đông Nam Á không phải là một khối thống nhất trong thụ động. Nó là một cuộc trò chuyện năng động, tiếp diễn. 

Đó là khi một học giả người Philippines tranh luận về di sản của sự cai trị Mỹ với một đồng nghiệp Việt Nam, hay một giáo sư người Malaysia chia sẻ câu chuyện về luật pháp quốc tế với nhà luật học người Indonesia và Myanmar. Là một nhân chứng của quá trình này, tôi chỉ có thể nói rằng câu chuyện "hậu thuộc địa" còn lâu mới kết thúc. Nó chỉ mới bắt đầu.■

Ngày nay, tiếng vọng lịch sử của lý thuyết phạm vi ảnh hưởng cạnh tranh đang trở lại dưới một hình thức mới. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Đông Nam Á từng là bàn cờ cho các cường quốc Âu, Mỹ và Nhật Bản, tất cả đều muốn tranh giành quyền kiểm soát các tuyến đường biển chiến lược và tài nguyên.

Ngày nay, các bên tham gia đã thay đổi, và dù cuộc chơi có vẻ vẫn vậy, đã có một khác biệt tối quan trọng. Không giống trước Thế chiến II, các quốc gia Đông Nam Á ngày nay thực sự có chủ quyền, là những chủ thể năng động và chủ động. Họ cố gắng tránh việc phải chọn phe, làm sao để thu được lợi ích từ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, trong khi vẫn dựa vào Mỹ để duy trì cán cân quyền lực.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận