Giảm thiểu tác hại của chất phóng xạ

BS TRẦN HOÀI NHÂN 04/05/2011 07:05 GMT+7

TTCT - Sự cố ở Nhà máy điện hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) làm rò rỉ một lượng lớn chất phóng xạ ra môi trường. Vì vậy, ai cũng cần phải biết phóng xạ ảnh hưởng như thế nào đối với sức khỏe và cách giảm thiểu tác hại của chúng.

Phóng to
Kiểm tra chất phóng xạ - Ảnh: Japan today

Tác hại của phóng xạ

Khi lò phản ứng hạt nhân gặp sự cố, các hệ thống làm lạnh trục trặc, nhiệt độ trong lò sẽ nóng lên quá mức, đặc biệt khi nhiệt độ lên quá cao, vỏ kim loại bọc quanh nhiên liệu uranium của lò phản ứng tan chảy, các chất phóng xạ cesium và iôt theo hơi nước thoát ra ngoài. Ngoài ra, những vụ nổ đều phơi lõi của lò phản ứng ra không khí và hỏa hoạn kéo dài nhiều ngày đã đẩy chất phóng xạ vào khói bụi bốc lên bầu trời, các chất phóng xạ phát tán theo gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường.

Cesium phóng xạ tích lại trong mô mỏng, không tồn tại được lâu trong cơ thể, phần lớn mất đi trong vòng một năm. Tuy nhiên, nó tồn tại lâu trong môi trường và có thể tiếp tục là vấn đề trong nhiều năm. Iôt phóng xạ sẽ ảnh hưởng đến dân cư xung quanh khu vực bị nhiễm xạ. Loại iôt độc hại này có xu hướng đọng lại ở tuyến giáp, làm tăng nguy cơ ung thư tế bào của tuyến này.

Đối với những người bị nhiễm xạ nặng, có khả năng hệ thống phụ trách việc sản sinh các tế bào máu, đặc biệt là tủy xương, bị ảnh hưởng nghiêm trọng, những bệnh ung thư thể lỏng như ung thư máu sẽ phát triển. Một liều lượng phóng xạ cao có thể dẫn đến bệnh suy tủy.

Iodure kali có làm giảm nguy cơ tổn thương tuyến giáp?

Tế bào tuyến giáp sử dụng iôt để tổng hợp ra các hormone tuyến giáp. Rắc rối là các tế bào tuyến giáp không phân biệt được iôt thường hay iôt phóng xạ, cứ iôt là chúng tóm lấy. Các iôt phóng xạ sẽ được các tế bào tuyến giáp bắt giữ và tại đây chúng sẽ phát xạ gây tổn thương cho tế bào tuyến giáp.

Những tổn thương này có thể là ung thư hoặc suy giảm chức năng tuyến giáp. Mức độ thương tổn tế bào tùy thuộc vào nồng độ, thời gian tiếp xúc với phóng xạ và quan trọng nhất là độ tuổi của đối tượng. Trẻ em dễ bị ung thư tuyến giáp hơn so với người lớn khi tiếp xúc với phóng xạ.

Nếu được uống một lượng iôt thích hợp trước khi tiếp xúc với phóng xạ thì iôt phóng xạ này sẽ không tích lũy lại trong tuyến giáp mà đào thải ra ngoài, do đó tránh được nguy cơ gây thương tổn các tế bào tuyến giáp. Nguyên tắc này được sử dụng trong những trường hợp bị ảnh hưởng bởi phóng xạ, loại iôt được sử dụng là muối của iôt với kali, gọi là iodure kali (KI). Tuy nhiên, việc chỉ định thời gian và liều lượng uống KI phải do cơ quan y tế có thẩm quyền ở địa phương quyết định, không nên tự ý mua uống.

Rõ ràng chỉ một số ít trường hợp sử dụng KI mới đạt hiệu quả 100%, trong những trường hợp đó cũng chỉ có ý nghĩa là KI giúp bảo vệ nạn nhân khỏi những nguy cơ ung thư và suy giảm chức năng tuyến giáp. Nạn nhân vẫn có thể bị đe dọa tổn thương gây ra bởi iôt phóng xạ và cesium cho những cơ quan khác trong cơ thể.

Không phải đợi đến những thảm họa hạt nhân iôt phóng xạ mới có cơ hội tấn công tuyến giáp. Iôt phóng xạ được sử dụng trong điều trị ung thư và bướu độc tuyến giáp (bệnh Basedow), người bệnh được cho uống chất phóng xạ và các tế bào ung thư và bướu sẽ bắt giữ nhiều iôt phóng xạ hơn các tế bào tuyến giáp bình thường. Vào trong tế bào, iôt phóng xạ sẽ phát ra tia xạ làm các tế bào ung thư và bướu tự tiêu diệt bởi tia xạ.

Iôt phóng xạ sẽ thải ra ngoài qua hơi thở, da, nước tiểu... do vậy những người được điều trị bằng iôt phóng xạ trong giai đoạn sau điều trị nên tránh tiếp xúc gần gũi, thân mật với người khác, nhất là phụ nữ đang mang thai và cho con bú.

Nghiên cứu cho thấy KI hiệu quả nếu được sử dụng sớm và ở những vùng dân cư đầy đủ về iôt. Uống KI ngay sau khi có cảnh báo phóng xạ sẽ đạt hiệu quả tối ưu trong việc phòng ngừa ung thư hoặc suy chức năng tuyến giáp. Uống càng trễ hiệu quả càng thấp. Liều lượng tùy theo mức độ thiếu hụt iôt ở từng địa phương.

Trong những vùng được cho là “giàu iôt”, uống KI sau hai giờ thì hiệu quả chỉ đạt 80%, uống sau tám giờ hiệu quả chỉ còn 40%. Trong vùng “nghèo iôt”, hiệu quả chỉ là 65% khi uống sau hai giờ và 15% khi uống thuốc sau tám giờ.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận