Khi văn học thôi làm ta khó chịu

NGUYỄN THANH SƠN 25/11/2025 12:01 GMT+7

TTCT - Và nếu có điều gì cần cho văn học Việt bây giờ thì đó chỉ là một điều giản dị: thêm một chút can đảm để đi xa hơn vùng an toàn, và thêm một chút trung thực để nói ra một điều gì đó thật, dù nhỏ.

LTS - Không một giải thưởng đơn lẻ nào đủ sức đại diện hay khái quát toàn bộ một nền văn học. Văn học luôn rộng lớn hơn mọi vinh danh, đa thanh hơn mọi hội đồng và phức tạp hơn mọi bảng xếp hạng. Tuy nhiên, cũng có những giải thưởng do lịch sử, uy tín và truyền thống trở thành những chiếc phong vũ biểu quan trọng, cho thấy phần nào không khí sáng tác của từng thời đoạn.

Cuộc thi truyện ngắn của báo Văn Nghệ, cùng với Tạp chí Văn nghệ Quân đội, từ lâu đã được xem như "giải hoa hậu quốc gia" của văn chương Việt Nam. Không phải vì từ đó những truyện hay nhất được chọn ra, mà vì chúng phần nào cho thấy tâm trạng, xu hướng và tinh thần chung của một thế hệ cầm bút. Những gì được tôn vinh ở đó, dù không thể đại diện cho toàn cảnh văn học, vẫn nói lên rất nhiều về khẩu vị thẩm mỹ, về ngưỡng an toàn, về điều mà người viết hôm nay lựa chọn hoặc né tránh.

Như một gợi mở đối thoại, chúng tôi giới thiệu bài viết này để người đọc cùng thử nhìn lại: văn học có còn đủ can đảm để làm ta nghĩ lại, để khiến ta khó chịu và từ đó, khiến ta lớn lên?

Gần đây, khi đọc lại toàn bộ các truyện ngắn đoạt giải của báo Văn Nghệ và cả những truyện ngắn trên báo được nhiều người khen ngợi, tôi nhận ra một cảm giác lạ: văn chương bây giờ có vẻ êm đềm một cách đáng ngờ. Nhân vật hiền, xung đột nhẹ, góc khuất được làm mềm. Dù chuyện kể có buồn, có mất mát, ta vẫn thấy nó được viết cứ như sợ sẽ làm người đọc tổn thương. Tôi không trách sự tử tế ấy, nhưng cảm giác thiếu điều gì đó cứ dai dẳng: thiếu một cú chạm buộc ta phải suy nghĩ lại, thiếu chút gai góc để nhớ, thiếu một mặt thật của đời sống... Và từ sự thiếu ấy, tôi bắt đầu tự hỏi: điều gì đang giữ văn chương đứng lại?

Đầu tiên, có lẽ là vì văn học Việt Nam như bước vào một vùng sáng an toàn của trại điều dưỡng, tránh mọi va chạm. Nhiều truyện cho tôi đúng cảm giác đó, sảnh của một bệnh viện, nơi mọi thứ sáng sủa nhưng không có hồn. 

Miền xa ngái viết bằng thứ ký ức không bạo liệt, không liều lĩnh, thiếu lực va đập, nên cái chết đi qua mà không để lại âm vang. Trăm Ngàn xoa dịu nỗi đau quá nhanh, như thể tác giả sợ để nhân vật chịu thêm một khoảnh khắc rát bỏng. Bờ sông lặng sóng thì đạo đức đến mức không để ai sai, mọi bi kịch được hóa giải thành bài học nhẹ nhàng. 

Trong những trang viết như thế, con người hiền đi, bi kịch mềm đi, văn chương lùi lại, nhường chỗ cho sự dễ chịu. Khi người viết né tránh cái dữ, cái xấu, cả những lằn ranh tối của con người, truyện đánh mất trọng lượng hiện sinh của nó. Văn chương không còn làm ta đau, mà chỉ dỗ ta yên. Và sự yên ấy là dấu hiệu của một thời kỳ đầy mệt mỏi.

Điều băn khoăn thứ hai là cảm giác đang đọc lại những phiên bản nhạt hơn của thế hệ Đổi mới. Miền xa ngái gợi nhớ Những người thợ xẻ, nhưng chỉ còn là một minh họa luân lý. Nhi thư mang giọng của Vàng lửa, nhưng không có ngọn lửa của tư tưởng. Tiếng vọng nhìn lại ký ức bằng đôi mắt buồn, nhưng thiếu chiều sâu suy tưởng. 

Người viết hôm nay học được phong vị, nhịp điệu, kỹ thuật, nhưng chưa chạm được vào tầng triết học nơi văn chương cũ từng cắm rễ. Khi nội lực không đủ để tạo nên thế giới riêng, người viết dễ trở thành tiếng vọng của tiền bối. Văn học vì thế không mở đường, mà chỉ đi lại trên những lối quen thuộc.

Tôi vẫn tin văn chương sinh ra để đặt câu hỏi khó, chứ không để dạy những bài học dễ. Nhưng nhiều truyện gần đây lại đi theo hướng ngược lại. Miền xa ngái rời khỏi văn học để rơi vào minh họa đạo đức, nơi người nghèo được phong vai cứu rỗi, còn sự phức tạp của con người bị rút khỏi khung hình. 

Nhi thư diễn ra như một câu chuyện không có chỗ cho xung đột bùng nổ, nơi ai cũng đúng, ai cũng tốt, và mọi xung đột được khép lại bằng lời răn. Bờ sông lặng sóng thì đạo đức đến mức khiến người đọc quên rằng cái đúng theo mẫu đôi khi giết chết tư tưởng. 

Khi người viết chọn đạo đức thay cho tư duy, câu chuyện sẽ phẳng, bởi đạo đức không cần suy nghĩ - nó chỉ cần được đồng thuận. Người viết chọn được khen hơn là được phản biện, chọn đúng mực hơn là dám sai. Và khi đó, truyện biến thành bài giảng, còn văn học thành tờ giấy khen.

văn học việt nam - Ảnh 1.

Một dấu hiệu khác của sự trì trệ là khi tự sự quá sạch sẽ. Trong Miền xa ngái, cái chết nhẹ như hơi, thiếu khả năng làm đau. Nhi thư treo đầy súng, nhưng không khẩu nào nổ - xung đột bị triệt tiêu như thể ai đó sợ tiếng động. Núi vỡ thì để cái chết trở thành cảnh tượng, nhiều hình ảnh nhưng không có một vết cắt vào bản thể. 

Có cảm giác nhà văn sợ đời thật đi vào trang viết: sợ bùn, sợ máu, sợ những ranh giới xấu xí của con người. Nhưng chính những phần đen tối mới làm nên trọng lượng của hiện thực; không có chúng, văn học chỉ còn bề mặt đẹp mà rỗng. Một truyện quá sạch sẽ luôn nhẹ, nhẹ đến mức có thể bay đi khỏi tâm trí ngay sau khi đọc xong.

Sự an toàn còn nằm ở chỗ người viết sợ khoảng trống. Trăm Ngàn có biểu tượng đẹp nhưng bị giảng nghĩa đến tận cùng, khiến nó mất độ ngân. Tiếng vọng dùng nhiều biểu tượng như chiếc cassette, tiếng ve, ánh nắng nhưng không đặt được nền tư tưởng để chúng tự tạo ý nghĩa. 

Bờ sông lặng sóng thì dùng sông làm cảnh nhiều hơn là cho nó một chiều sâu tâm linh. Khi tác giả không tin vào khả năng cảm nhận của người đọc, họ buộc văn bản phải nói hết, phải giải thích, phải đóng mọi cánh cửa mở. Nhưng văn học sống nhờ phần không nói. Khi khoảng trống bị lấp kín, tác phẩm mất sức sống của sự mơ hồ.

Một dạng văn chương khác tưởng như chan chứa nhân ái nhưng lại làm nghèo cảm xúc: văn chương viết để thương. Trăm Ngàn rơi vào căn bệnh thương cảm, nơi lòng thương trở thành kỹ năng nghề nghiệp. 

Bờ sông lặng sóng hòa trộn thương cảm với đạo đức thành thứ buồn vừa phải, thương đúng chỗ, nhưng né tránh những góc lạnh của sự thật. Khi thương cảm trở thành phong cách, người viết không dám để nhân vật sai, không dám cho họ thất bại. Văn học không sinh ra để vuốt ve; nó sinh ra để mở mắt. Một lòng thương không đi qua thử thách của sự thật chỉ còn là âm thanh dịu mà rỗng.

Nhìn rộng hơn, vấn đề nằm ở chỗ văn lực đang yếu đi. Tiếng vọng thiếu độ sâu văn hóa, ký ức chỉ còn là sương buồn, không trở thành bình luận về thời gian. Thư viện người có ý tưởng nhưng thiếu sức ngôn ngữ và chiều sâu để nâng đỡ. Núi vỡ trang trí nhiều hình ảnh nhưng không dùng một hình để kết tinh tư tưởng. 

Văn chương yếu đi không phải vì người viết ít cảm xúc, mà có lẽ vì họ thiếu vốn văn hóa để chuyển hóa cảm xúc thành tư tưởng, thiếu kỹ năng ngôn ngữ để tạo nhát cắt của chữ, thiếu trí tuệ để mở thêm lớp nghĩa sau câu chữ. Một tác phẩm không có độ nén của từ thì không thể có độ ngân của ý. Khi văn lực suy giảm, văn học chỉ còn là dòng nước đẹp, nhưng đáy lại nông choèn.

Nghịch lý là nền văn học càng hiền lại càng được tôn vinh. Giải thưởng, thứ đáng lẽ tôn vinh sự liều lĩnh, nay trở thành nơi an toàn nhất. Một tác phẩm càng đúng đắn, càng tròn trịa, càng dễ được ca ngợi. 

Người viết không bị cấm viết khác, nhưng ai cũng hiểu nên viết thế nào để được in, được khen. Không cần ai ra lệnh, phần thưởng đủ khiến người ta tự điều chỉnh. "Kiểm duyệt" bằng phần thưởng là hình thức kiểm duyệt tinh vi nhất. 

Những tác phẩm gai góc, gây tranh cãi ít đi, không vì thiếu người viết, mà vì họ không có chỗ đứng. Còn những người an toàn thì được tưởng thưởng. Giải thưởng, vốn lẽ ra là ngọn đèn soi đường cho sáng tạo, giờ chỉ nhấp nháy ở vùng nước lặng.

văn học việt nam - Ảnh 2.

Ảnh: PINTEREST

Có lẽ còn một lực kéo khác, đến từ chính xã hội tiêu thụ đang quen với nhịp sống rút gọn. Người ta muốn những câu chuyện dễ thương như một đoạn reel lướt qua trong im lặng của ngón tay, muốn chữ nghĩa mềm và nhanh, không đòi hỏi phải dừng lại. Câu dài thành chướng ngại, khoảng trống thành lãng phí, sự phức tạp thành nỗi mệt. 

Và quen viết trên mạng xã hội, người viết nhận ra thuật toán chỉ tưởng thưởng cho những gì nhẹ, ngắn, dễ yêu. Dần dần, chữ bị uốn theo phần thưởng vô hình ấy; văn chương bị thu nhỏ thành những mẩu dễ nuốt. Khi thị hiếu ưu ái cái mỏng, ta mất dần khả năng chịu đựng cái dày của tư tưởng. 

Điều đáng lo không phải là văn chương ít người đọc, mà là người đọc ngày càng sợ ở lại lâu hơn với một câu chữ. Và có lẽ, trong thời đại quá nhanh này, sự chậm rãi và dài của văn chương chính là hành động can đảm.

Bởi vậy, điều đáng buồn không phải là văn học Việt Nam yếu, mà là nó đang được khen vì sự yếu ấy. Chúng ta dễ nhầm lẫn giữa "nhân văn" với "vô hại", giữa "sâu sắc" với "hiền dịu", giữa "được yêu mến" với "đáng nhớ". Văn học không hẳn chỉ cần được thích thú; nó cần được đọc, được tranh cãi, được nghi ngờ. Chỉ khi dám làm người đọc khó chịu, nó mới thực sự sống.

Nếu có một giải thưởng xứng đáng thì hãy trao cho tác phẩm khiến người đọc mất ngủ - không phải vì sợ hãi, mà vì vừa nhận ra chính mình. Một cuốn sách làm ta không còn yên ổn trong vùng an toàn của tư tưởng, khiến ta tự hỏi lại những điều tưởng như đã chắc chắn. Đó mới là phần thưởng thật của văn chương: làm cho con người không thể quay trở lại như cũ sau khi đọc xong.

Nhìn lại, tôi không nghĩ nhà văn hôm nay yếu hay kém; họ chỉ đang chọn con đường ít rủi ro nhất. Viết hiền thì an toàn. Viết đẹp thì dễ được chấp nhận. Viết đúng mực thì không khiến ai khó chịu. 

Nhưng văn học không thể chỉ dừng ở mức "không ai phàn nàn". Nó cần bóng tối, cần va chạm, cần những câu hỏi không dễ nghe. Chỉ khi ấy, tác phẩm mới ở lại lâu trong lòng người đọc. 

Và nếu có điều gì cần cho văn học Việt bây giờ thì đó chỉ là một điều giản dị: thêm một chút can đảm để đi xa hơn vùng an toàn, và thêm một chút trung thực để nói ra một điều gì đó thật, dù nhỏ.

Cuộc thi truyện ngắn báo Văn Nghệ 2022 - 2024 được tổng kết vào ngày 24-7-2025 với 10 giải thưởng (trong gần 2.700 tác phẩm gửi đến), không có giải nhất.

2 giải nhì:

Trăm Ngàn (Ngô Tú Ngân): Truyện kể đời Trăm Ngàn - đứa trẻ bị bỏ rơi, mang cái tên như một món tiền phạt, lớn lên làm chân chạy vặt trong gánh hát, nghèo, xấu, nhưng luôn chăm chút cho mọi người và âm thầm đi khắp nơi tìm mẹ ruột. Tuổi già, mang bệnh nặng, anh xin được cùng đoàn hát xuôi ghe về quê, vẫn không ngừng dò hỏi tin mẹ, rồi chết lặng lẽ bên mé sông, được anh em trong đoàn đưa về đất cũ. Trong giấc mơ cận tử mang màu sắc huyền ảo, Trăm Ngàn được gặp lại mẹ, như một vòng đời khép lại và mở ra, hóa giải kiếp phận bị chối bỏ.

Bờ sông lặng sóng (Vũ Ngọc Thư): Truyện xoay quanh Nhung, cô gái lớn lên trong làng quê sau chiến tranh, có người bố bị báo tử nhầm, người mẹ cô đơn và người "bố thứ hai" là chú Huấn, đồng đội của bố, lặng lẽ chăm sóc hai mẹ con rồi lấy mẹ. Khi bố bất ngờ trở về, ông đón Nhung ra bãi Hàn làm gạch cùng chú Thân. Ở bờ sông Thái Bình, Nhung vừa được nuôi dưỡng, vừa âm thầm nảy sinh tình cảm trong trẻo với chú Thân. Về sau, chú Huấn chết vì vết thương cũ, bố mang mặc cảm, mẹ mang tội lỗi, còn chú Thân tự nhận làm em của bố mẹ và thành "chú ruột" của Nhung.

2 giải Ba:

Nhi thư (Hà Đình Cẩn): Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Trịnh Thị Khánh - "nhi thư" của Nguyễn Trãi, vừa là vợ tướng Nguyễn Xí, theo chồng làm binh vận, dùng lời dụ hàng và mưu kế giúp chiếm đồn giặc. Bị bắt, nàng giấu thân phận, rồi dùng tiếng hát lay lòng lính Minh, sau đó mưu sát Tổng binh Hoàng Phúc nhưng không thành, bị xử "thượng thành" thiêu sống trên thành Đông Quan. Cái chết của Nhi thư trở thành hy sinh âm thầm phía sau chiến thắng: từ họa đồ nàng đánh cắp, nghĩa quân đánh bại viện binh, buộc Hoàng Phúc phải mở thành rút quân, hoàn tất cuộc bình Ngô.

Miền xa ngái (Phạm Ngọc Hùng): Nhân vật "tôi" trượt đại học, theo anh Thành đi đãi vàng để kiếm tiền ôn thi, lần đầu đối diện đời sống rừng rú: đói nghèo, bạo lực, gái "hoa", trấn cướp, và những câu hỏi về thân phận "dân dân". Vàng thu được ít ỏi, ước mơ "một cây vàng" của anh Thành còn dang dở thì vợ anh bỏ theo Mười phế liệu; sau đó anh bị anh em Nhân, Nghĩa chém chết vì nghi giấu vàng và chúng phải vào tù. "Tôi" thi đậu thủ khoa nhưng tụt xuống diện đóng học phí, muốn bỏ học, rồi nhớ đến túi "ngải" anh Thành gửi: mở ra thấy hóa ra là 6 chỉ vàng vảy, số vàng âm thầm cứu anh thoát khỏi miền rừng xa ngái và tiếp tục con đường học hành.

6 giải tư cho các tác phẩm Núi vỡ (Lữ Trọng), Cây gạo ở chợ chiều (Cầm Thị Đào), Tiếng vọng (Vương Đình Khang), Đất ao (Đào Quốc Vịnh), Thư viện người (Lê Văn Thân) và Rượu hoa mất trí (Như Bình).

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận