Tiểu luận: Tìm lại thế giới huyền nhiệm

KARL OVE KNAUSGÅRD 02/09/2025 15:20 GMT+7

TTCT - "Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xây dựng trí tuệ nhân tạo và các loại máy móc khác giống như bạch tuộc, giống như nấm hay khu rừng?"

máy tính cổ xưa - Ảnh 1.

Difference Engine No.2, cỗ máy tính cơ học do Charles Babbage thiết kế năm 1847-1849 (Bảo tàng Khoa học London)

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy máy tính là năm 1984. Khi ấy tôi mười lăm tuổi, sống ở vùng hẻo lánh cách thị trấn gần nhất nhiều dặm, tại một đất nước phương bắc xa xôi, gần như ở rìa thế giới. 

Tôi đến nhà người bạn cách đó vài dặm. Cha mẹ cậu ấy coi tôi như con trong nhà, cho đám trẻ không gian riêng. Chúng tôi học lớp chín cùng trường. Buổi tối hay cuối tuần, chúng tôi chơi guitar, nghe nhạc, trò chuyện; nếu không thì lại lang thang đạp xe, đôi khi không mục đích.

Đến nơi, tôi dựng xe tựa tường mà không khóa, đi lên cầu thang, bấm chuông, kéo mũ trùm xuống. Bạn tôi mở cửa như thường lệ. Cây guitar của cậu nằm trên giường, đã cắm dây, chiếc ampli nhỏ trên sàn kêu vo vo.

"Muốn xem ba tao chế cái gì không? Hay lắm", cậu nói.

"Tất nhiên", tôi đáp, dù chẳng quan tâm đến việc cha cậu làm. Cha cậu là kỹ sư trong Không quân Hoàng gia Na Uy. Thứ ông chế, đặt trên bàn dưới tầng hầm, là một hộp kim loại màu xám và màn hình tối với những dòng chữ xanh sáng.

"Cái gì đây?"

"Máy tính đấy"

Tôi từng nghe nói về máy tính nhưng chưa bao giờ thấy. Nó tựa như một thứ gì đấy liên quan đến radar hay máy định vị. Tôi biết đó là công nghệ tiên tiến, dùng trong hàng không vũ trụ, chắc cho cả máy bay và tàu ngầm, nhưng tôi chẳng quan tâm. Với tôi, tất cả những thứ trong phòng, nào là dây điện nhỏ, bảng mạch xanh với các chốt kim loại, hộp, mỏ hàn, kìm cắt dây, cuộn dây, ốc vít đều vô nghĩa. Cha cậu có làm cái ghế hay hàn cái loa cũng thế thôi.

Trải nghiệm này hoàn toàn không hề mang tính "bước ngoặt". Cỗ máy tính chẳng chứa đựng ý nghĩa hay tương lai nào; nó chỉ là một cái hộp trong tầng hầm ngôi nhà, vào một buổi tối mưa ẩm ướt năm 1984.

Bốn mươi năm sau, công nghệ trong chiếc hộp xám kia đã hiện diện khắp nơi, chi phối mọi mặt đời tôi. Điều này đã lạ lùng, nhưng lạ hơn nữa là chưa một lần tôi thực sự chú tâm tìm hiểu công nghệ, xem nó vận hành thế nào và tác động ra sao đến mình. Như thể tôi chuyển đến đất nước xa lạ mà chẳng buồn học ngôn ngữ, bằng lòng không hiểu chuyện gì đang diễn ra quanh mình, chỉ khép kín trong thế giới nhỏ bé của riêng tôi. Dạo gần đây, tôi bắt đầu thấy đó là một sự bỏ bê nghiêm trọng. Việc theo dõi tình hình chính trị thế giới là một bổn phận, một điều ta không có quyền quay lưng. Vậy chẳng phải công nghệ, với tầm ảnh hưởng to lớn, cũng đáng được đối xử như thế sao?

Trong bảy tháng liền, tôi cố gắng làm rõ điều làm mình vướng bận, đọc rồi viết, viết rồi đọc, nhưng chẳng đi đến đâu; tôi không vượt qua được cái hiển nhiên. Cái đã biết lại là kẻ thù của văn chương. Cái hiển nhiên chỉ khẳng định; văn chương phải thách thức cái được khẳng định. Miêu tả những gì tôi nhìn thấy thì dễ, miêu tả những gì tôi nghĩ cũng dễ. Nhưng vì sao tôi thấy điều tôi thấy? Vì sao tôi nghĩ điều tôi nghĩ? Đó mới là thứ khó nắm bắt. Bởi những gì tôi thấy chính là thế giới; những gì tôi nghĩ chính là bản thân tôi. Điều văn chương có thể làm là thiết lập một địa hạt "bên ngoài". Và khi đã có hai nơi thì nơi thứ nhất không còn là mặc định nữa; nó không còn tối thượng, và không còn hiển nhiên. Vấn đề hiện tại của tôi, điều tôi vật lộn, là không tìm được một địa hạt "bên ngoài" của công nghệ. Như thể cái bên ngoài đã biến mất, như thể nó không còn là nơi có thể tồn tại.

Cảm giác ấy như thể toàn bộ thế giới đã biến thành hình ảnh của chính nó và vì thế bị kéo vào trong cõi của con người. Không còn nơi chốn, sự vật, con người hay hiện tượng nào mà tôi không thể có được qua hình ảnh hoặc thông tin. Người ta có thể nghĩ điều này làm thế giới thêm đầy đặn, bởi ta biết về nó nhiều hơn, chứ không ít đi; nhưng ngược lại mới đúng: nó làm thế giới rỗng đi và mỏng hơn. Bởi tri thức về thế giới và kinh nghiệm về thế giới là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Tri thức không có thời gian hay địa điểm cụ thể, có thể được truyền đạt; còn kinh nghiệm luôn gắn chặt với một khoảnh khắc, một nơi chốn và không bao giờ lặp lại. Cũng vì thế, nó không thể đoán định. Chính hai chiều kích đó (tính không lặp lại và tính không thể dự đoán) là những gì công nghệ xóa bỏ.

Đó là cảm giác về sự mất mát thế giới. Như thể thế giới đang phai dần, như thể nó đang bị vạt đi. Điều này nghe có vẻ nghịch lý, nhất là khi nghĩ đến những cuộc chiến tàn bạo, khủng khiếp đang diễn ra, với cái chết và khổ đau dường như là sự "dư thừa" của hiện thực. Nhưng chúng đến với ta qua hình ảnh; chúng phẳng và có thể thao túng, xuất hiện giữa một trận lũ những hình ảnh khác. Trong tôi tồn tại một cảm giác: rằng những gì tôi nhìn thấy thì tôi kiểm soát được, rằng tôi có một cái nhìn bao trùm. Tất cả những hình ảnh tôi từng thấy về những nơi tôi chưa bao giờ đến, những con người tôi chưa từng gặp đã tạo thành một thứ ký ức giả từ một thế giới giả mà tôi không tham dự. Hình ảnh đến với tôi đã hoàn tất sẵn; không có giao tiếp nào giữa chúng và tôi, không có sự trao đổi qua lại. Vậy nên, cho dù ta thích nói rằng thế giới đang mở ra với mình, vì ta có thể nhìn thấy mọi nơi thì ta cũng có thể nói: thế giới đang khép lại, ngay trong sự mở ra ấy.

Trong những cuốn sách tôi đọc, có một cuốn nổi bật hẳn lên: Ways of Being (Những cách hiện hữu) của tác giả và nghệ sĩ người Anh James Bridle viết. Sách bàn về những dạng thức khác nhau của trí tuệ phi nhân loại. Xuất phát điểm là những cỗ máy thông minh không hề trung tính; chúng được tạo ra trong môi trường và điều kiện nhất định, và phản chiếu lại điều đó. Bridle chiêm nghiệm: "Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xây dựng trí tuệ nhân tạo và các loại máy móc khác giống như bạch tuộc, giống như nấm hay khu rừng?". Bridle cũng đề cập những dạng máy tính khác: máy tính hữu cơ, máy tính làm từ cua, ong, bồ câu, mối, nước!

Tôi gửi email xin phỏng vấn. Tôi nghĩ Bridle ở Anh, nhưng hóa ra anh ta ở một hòn đảo ngoài khơi Athens và chẳng có ý định tới London, nơi tôi sống.

Một buổi sáng sớm vài tuần sau đó, tôi theo dòng hành khách xuống phà. Xe cộ lao ra từ mũi phà mở rộng hướng về thị trấn nhỏ ở cuối bến. Không khí nồng mùi nước mặn và khói xe, tiếng động cơ phà đập vào thân cầu cảng. Bridle đã nhắn trước rằng anh ta sẽ mặc áo phông màu cam để tôi nhận ra.

"James?", tôi gọi.

Chúng tôi bắt tay và James dẫn tôi về chiếc Honda cũ màu vàng.

máy tính cổ xưa - Ảnh 2.

Nhà văn Na Uy Karl Ove Knausgård

"Ta có thể lên núi", James nói khi chúng tôi ngồi vào xe. "Núi Hellanion, có nghĩa là Zeus của người Hy Lạp. Người địa phương chỉ gọi nó là Óros, nghĩa là ngọn núi. Thế nên nhiều nơi ghi là Mount Óros, tức là 'Núi Núi'. Ha ha!".

Con đường chạy giữa bến cảng đầy thuyền buồm và tàu cá, một dãy nhà màu trắng và vàng có cửa chớp sơn đủ màu sáng tươi: xanh lá, đỏ, xanh da trời, tím, vàng. Thỉnh thoảng lại mở ra một con ngõ nhỏ dẫn vào trung tâm thị trấn.

Không lâu sau, chúng tôi rẽ vào đường sỏi và dừng xe. Ngoài tiếng ve sầu thì bầu không khí hoàn toàn tĩnh lặng. James lấy lọ kem chống nắng trong ba lô, thoa lên, đưa cho tôi, và tôi cũng làm vậy.

James có một nguồn năng lượng thân thiện, nhưng cũng có nét dè chừng, kiểu như khi hai người vẫn chưa biết rõ vị trí của mình với nhau.

"Vậy anh muốn nói chuyện gì với tôi?", James hỏi khi đường mòn rẽ ngoặt.

"Tôi cũng không chắc lắm", tôi ngập ngừng. "Chỉ là tôi nhận ra mình chẳng biết gì về công nghệ máy tính; tôi hoàn toàn mù tịt, dù nó là một phần lớn trong đời sống. Tôi bắt đầu đọc chút ít, cả sách của anh. Tôi rất thích ý tưởng về những trí tuệ khác, những cách suy nghĩ khác tồn tại trên thế giới. Những gì anh viết về máy tính cua hay máy tính nước, tôi chưa từng nghe trước đó".

"Tôi hiểu", James nói.

Cách khoảng hai mươi mét phía trước, trên một gờ đá, có một nhà nguyện nhỏ. Bên cạnh, dưới vách núi, tôi thấy một hồ đá nhỏ ngập nước. Chúng tôi ngồi xuống, James đưa tôi chai nước, tôi nhấp một ngụm. Không gian tuyệt đối yên tĩnh.

"Ngày xưa ở đây có đền thờ", James nói. "Của 'Zeus người Hy Lạp', cả ngọn núi dâng cho ông. Còn có cả một khu nghi lễ nhỏ hơn trên đỉnh để hiến tế".

Nước trong vắt chảy qua lớp đá, ánh nâu nhạt hiện lên qua làn nước. Trên cao là ngọn núi, dưới kia là thung lũng, tất cả đều lặng im. Nắng lấp lánh trên mặt biển.

"Anh nghĩ nơi này được dựng vì có mạch nước ngầm không?".

James lắc đầu.

"Không phải suối đâu. Đây là bể chứa. Vùng này có nhiều lắm. Chúng do các mục đồng đào, không biết từ bao giờ. Đến giờ người ta vẫn còn dùng".

Tiểu luận: Tìm lại thế giới huyền nhiệm - Ảnh 3.

James Bridle và tác phẩm nổi tiếng của ông.

Tiếp tục đi, James kể cho tôi về những phát hiện khảo cổ hơn ba nghìn năm tuổi, từ thời kỳ Mycenae (cuối thời kỳ đồ đồng tại Hy Lạp), tức là giai đoạn như sử thi Homer mô tả, khi vận mệnh con người và tính chất sự vật gắn liền với sự hiện diện của những quyền năng thần linh vô hình.

Chúng tôi tới một bình nguyên trên đỉnh và thấy một tòa nhà nhỏ màu trắng, hai bên che bạt. James nói đó là nơi khai quật. Không có hàng rào hay chướng ngại nào, như thể những gì ở đó chẳng có giá trị. Hoặc như thể nó cũng chẳng quan trọng hơn bất kỳ thứ gì khác.

Chúng tôi ngồi xuống, tựa lưng vào bức tường phía sau tòa nhà. Khung cảnh trước mắt thật ngoạn mục. Những hòn đảo xanh với sườn núi trắng, đứng yên trong làn biển xanh thẳm, dường như run rẩy dưới ánh phản chiếu lấp lánh của mặt trời. James đưa tôi chai nước và kể rằng anh đã đến Eleusis vài tuần trước và tận mắt thấy các cuộc khai quật ở đó.

"Ở đó có đạo Orphic, đúng không?", tôi hỏi.

"Thực ra đó là một dạng tín ngưỡng kéo dài hai ngàn năm, gắn với những bí nhiệm về mặt sinh thái. Cốt lõi là vượt qua cái chết thông qua mối quan hệ với trái đất, vì vũ trụ được xây dựng quanh những chu kỳ, nên thật ra không có cái chết; chỉ là sự trở lại bất tận của sự sống trong nhiều hình thức khác nhau, và không có gì phải sợ hãi. Người ta hiểu được điều này qua quá trình nhập môn, những nghi lễ huyền bí, và những bài học về thế giới tự nhiên giúp con người gắn kết lại với nhau".

"Không có giáo trình".

"Đúng vậy. Không có gì anh có thể học một cách trừu tượng cả. Việc duy nhất anh có thể làm là tự mình trải nghiệm. Anh phải làm, phải trải qua, nó phải xảy đến với anh. Bằng thân thể, bằng thể xác, vì anh là một phần của thế giới. Thế giới tệ hại vì chúng ta tệ hại. Chữa lành chính mình cũng là một phần của việc chữa lành thế giới".

Một con chim săn mồi lượn qua bầu trời phía trên chúng tôi, xoay vòng, rồi biến mất khỏi tầm mắt. Trên cao gió thổi mạnh, nhưng mặt trời thì rực cháy, soi sáng toàn cảnh rộng lớn bên dưới.

Chúng tôi đi xuống bằng một lối khác và chẳng bao lâu thì gặp một con đường lát đá rộng, men theo đó đến xe. Chúng tôi trở về nhà anh và ăn trưa ngoài hiên rợp bóng. Sau bữa, chúng tôi đến một căn nhà gạch nhỏ xiêu vẹo trên khu đất để thực hiện buổi phỏng vấn. Một làn gió nhẹ từ biển thổi lên; lá cây bên trên xào xạc; vài con chim hót; ngoài ra thì im lặng tuyệt đối và nóng hầm hập.

"Tôi đã nói rồi, cả đời tôi hoàn toàn dốt đặc về công nghệ", tôi nói. "Gần đây tôi mới bắt đầu quan tâm, nhưng vẫn không hiểu nổi, nên tôi nghĩ anh là người thích hợp để hỏi: Điện toán là gì vậy?".

"Điện toán ư?" - James nhắc lại, có phần ngạc nhiên.

Mặt tôi nóng bừng. Cứ như hỏi một nhà văn sách là gì, hay hỏi một đạo diễn rằng phim có tác dụng gì. "Ý tôi là những điều cơ bản nhất. Chúng ta coi máy tính là hiển nhiên, nhưng nếu quay lại 200 năm trước và nhìn vào tiềm năng bây giờ, hẳn sẽ giống như phép màu".

"Đơn giản là đếm số", James nói. "Là toán ứng dụng. Là thao tác với ký hiệu để biểu đạt thế giới rồi thực hiện các phép tính để thay đổi chúng. Ví dụ tôi hay dùng nhất là dự báo thời tiết. Anh lấy dữ liệu, chẳng hạn nhiệt độ ở các thành phố châu Âu trong một ngày, rồi tiến hành một phép tính nào đó, để hiểu theo cách cụ thể, hoặc dự đoán tương lai. Chỉ là xử lý thông tin và biến thông tin thành thứ khác cho một mục đích nhất định. Để dự báo hoặc phân tích. Đó là một hệ thống để hiểu thế giới. Hoàn toàn không có gì huyền bí cả!".

"Nhưng nếu anh không phải người trong ngành thì…".

"Nhưng điều đó, cũng như mọi thứ khác, vừa là vô thức vừa là có ý thức. Đấy là cách hiểu được cố tình tạo ra bởi những người buôn bán trong lĩnh vực này, để khiến họ trông có vẻ quyền lực, để bảo vệ bí mật công ty, để có thể lấy thật nhiều tiền cho công việc họ làm, đại loại như thế. Đồng thời, hệ thống giáo dục cũng không dạy chúng ta những cách tư duy giúp hiểu được những điều này. Nhưng thực ra, nó lại vô cùng dễ tiếp cận với mọi người. Giống như việc chúng ta ngồi đây bàn bạc một cách rắc rối về cách đóng cái bàn này. Thay vào đó, sẽ dễ hơn nhiều nếu chúng ta cùng nhau bắt tay vào đóng bàn luôn".

"Tôi thấy phần máy tính hữu cơ trong sách anh rất hấp dẫn. Máy tính làm từ cua, kiến, nước. Đặc biệt thú vị là chỗ anh viết về Stafford Beer và ý tưởng của ông ta".

"Beer đã làm đủ loại thí nghiệm kỳ lạ, tìm cách khai thác các yếu tố tự nhiên theo cách cho phép máy tính của mình phản ứng được phần nào với thế giới thực. Máy tính số về cơ bản tách rời khỏi thế giới; chúng chỉ hoạt động hoàn toàn trên sự trừu tượng. Chúng chỉ được cung cấp những bức tranh về thế giới mà thôi. Như một người sống trong hộp chỉ biết thế giới qua ảnh chụp. Nên kết quả cũng chỉ là một bản giản lược của thế giới. Máy tính tuyệt vời cho một số tác vụ, nhưng sự thống trị văn hóa của chúng thì hoàn toàn sai lệch. Chúng thật cuốn hút, thông minh và vô cùng mạnh mẽ. Nhưng khi gắn với quyền lực lớn, bạo lực sinh ra từ đó thực sự đáng sợ".

"Có lối thoát nào không?".

"Sau khi viết cuốn New Dark Age (Thời kỳ tăm tối mới), tôi xuống tinh thần lắm. Một cách tôi thoát khỏi trầm cảm là tạo ra thứ gì đó. Chúng tôi mua một xe tải nhỏ và cải tạo thành xe dã ngoại. Tôi muốn lắp pin mặt trời trên nóc nên phải tự tìm cách. Đó chính là khởi đầu quá trình kéo tôi ra khỏi cơn trầm cảm liên quan tới biến đổi khí hậu. Tôi bắt đầu chế các thiết bị tái tạo cực kỳ đơn giản. Anh làm một chiếc hộp, sơn đen bên trong, đặt kính lên, thế là có lò nướng. Anh có thể nấu ăn bằng cách xoay nó theo mặt trời. Anh đặt ống kim loại mỏng vào, khoan lỗ trên và dưới, đặt dưới nắng, kể cả giữa mùa đông, không khí lạnh đi vào đáy, không khí nóng sinh ra ở trên. Thế là có lò sưởi. Anh có thể dựng tuốc bin gió. Tôi đã làm vài cái. Có cái dùng sạc điện thoại. Tôi nhận ra việc làm những thứ đó đưa tôi ra khỏi trạng thái tê liệt khi đối diện với tương lai. Nhưng không có nghĩa mấy thứ đó cứu rỗi chúng ta!".

máy tính cổ xưa - Ảnh 4.

"Tôi hiểu".

"Trước đây, với tôi công nghệ thật đáng sợ và nặng nề. Một trong những vấn đề lớn ở phương Tây là chúng ta sống trong xã hội của những hệ thống phức tạp mà chẳng ai thật sự hiểu, và ai cũng cố không nghĩ tới. Chính điều đó làm anh suy sụp. Nhiều năm tôi đi dạy, tôi có thể dạy nửa ngày lập trình hoặc dẫn sinh viên tìm tòi cấu trúc vật lý của Internet. Buổi học biến cái trừu tượng thành cái cụ thể, có thể nắm bắt, không còn nỗi khủng khiếp hiện sinh. Từ một sức mạnh bất khả tri chi phối đời sống, nó biến thành một thứ trong đời họ, có ranh giới, dễ hình dung hơn. Với tôi, học lập trình chính là điều mang lại cảm giác đó: năng lực đối diện với hệ thống phức tạp. Đây là điều chúng ta chẳng bao giờ được dạy: giải quyết vấn đề tổng quát, khơi dậy tính tò mò, hay học cách để học. Vì thế, mấy món đồ chơi năng lượng mặt trời ấy với tôi là một mặc khải: anh có thể làm y như vậy với nghề mộc".

Chúng tôi đã uống xong cà phê từ lâu. Tôi rót nước vào cốc. Bức tường gạch của căn nhà sau lưng chúng tôi được nắng rọi sáng, những cái bóng lay động trên mặt bàn khi gió lùa qua tán lá trên cao. Chim hót ríu rít.

Tôi nói: "Tôi nghĩ chính sự kết hợp giữa thế giới vật chất và bản chất trừu tượng của máy tính đã khiến tôi say mê sách của anh. Tôi thấy như có gì đó thiếu trong đời mình. Cứ như tôi đang sống trong một thực tại trừu tượng vậy".

Sau buổi phỏng vấn, tôi cùng gia đình James ra bãi biển bên kia đảo. Mặt trời đã bắt đầu chìm xuống. Biển xanh thẫm, cát vàng, thảm thực vật trên triền đồi có màu xanh xỉn. Khi chúng tôi bơi ra, James kể về những loài cá mới xuất hiện ở đây do khủng hoảng khí hậu. Nước ấm, tiếng nói chuyện từ bãi biển vang lên như tiếng thì thầm. Tôi luôn nghĩ đây là khoảng thời gian rờn rợn nhất trong ngày, khi ngày tàn và bóng đêm đang lặng lẽ chờ đợi.

Sáng sớm hôm sau tôi bay về London, trong khi tất cả những gì tôi thấy và nghe ở hòn đảo Hy Lạp chậm rãi lắng xuống lớp phù sa của ký ức. Mùa thu qua đi, mùa đông đến. Khi tôi viết những dòng này là mùa xuân và hoa tôi trồng hồi tháng mười đã trổ bông, mọc khắp các luống ngoài vườn.

Ngôn ngữ của những con số có thể cho ta biết cách một sự vật vận hành, nhưng không cho biết về bản chất, thứ chỉ có thể nắm được qua trải nghiệm. Trong giáo phái Eleusis cổ xưa, các tín đồ được dẫn vào phòng tối, nơi họ bị cuốn vào cơn lốc của những ấn tượng mà không ai nói cho họ biết những gì họ thấy có nghĩa gì. Đó mới chỉ là nửa đầu nghi lễ. Nửa còn lại diễn ra vào năm sau, khi họ quay lại. Lúc này họ chứng kiến nghi lễ từ bên ngoài, và chỉ khi cái nhìn từ bên trong được bổ sung bằng cái nhìn từ bên ngoài, nghi lễ mới hoàn tất. Những kết luận rút ra, những gì họ học và hiểu được hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người.

Nhưng làm sao có thể nhìn thế giới từ bên ngoài khi mà giờ đây chẳng còn một 'bên ngoài' nào nữa? Đó từng là câu hỏi của tôi. Thế giới vốn dĩ khó lường, nhưng mọi hệ thống của chúng ta đều hướng tới tính có thể dự đoán, và chính điều đó đã khép nó lại. James cho rằng quanh ta có muôn vàn dạng thức trí tuệ khác ngoài trí tuệ của loài người, những dạng thức mà ta đã tự tách mình khỏi. 

Sự quan tâm của James tới máy tính hữu cơ, tìm cách đưa yếu tố ngẫu nhiên vào các thiết bị công nghệ, bắt nguồn từ khát vọng muốn mở ra thế giới. Một trong những lý do tôi quý James đến thế là vì lối tư duy của anh: không loại bỏ công nghệ, không coi nó là kẻ thù, mà ngược lại đặt hy vọng vào đó. Còn biết đặt hy vọng vào đâu nữa? "Nơi nào có hiểm nguy, nơi đó cũng nảy sinh quyền năng cứu rỗi," như nhà thơ Đức Hölderlin từng viết.

Trần Quốc Tân (lược dịch từ tạp chí Harper's, 6-2025)

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận