Truyện ngắn: TUYẾT

FERDINAND VON SCHIRACH 03/01/2022 19:10 GMT+7

TTCT - Khi cảnh sát kéo được Hassan khỏi thằng kia, mồm hắn chỉ còn là một đống bầy nhầy máu me: Hassan đã lấy búa đập gãy mười một cái răng. Tối hôm đó quả thực có tuyết rơi.

 
 Tranh Amlan Dasgupta

 Lão đứng hút thuốc trong bếp. Ngày tháng Tám ấy trời nóng, lão mở rộng cửa sổ. Lão ngắm cái gạt tàn thuốc lá: nàng tiên cá khỏa thân với cái đuôi cá xanh lá cây, dưới đó là dòng chữ “Chào mừng quý khách đến Repperbahn”. Lão không biết nó từ đâu ra. Màu nàng tiên đã nhạt, chữ “R” của “Repperbahn” đã bong mất. Những giọt nước rỏ lách chách xuống bồn sắt, chậm rãi và đanh. Khiến lão yên lòng. Lão chỉ muốn đứng mãi bên cửa sổ, và hút thuốc, và chẳng làm gì.

Đội đặc nhiệm tập hợp trước nhà. Cảnh sát khoác đồng phục trông như quá rộng, mũ sắt đen và tấm che mặt trong suốt. Họ được điều đến làm những nhiệm vụ quá khó đối với người khác, khi dự tính có vũ khí và chống trả. Đó là những người đàn ông cứng rắn với quy tắc cứng rắn. Trong khi lâm trận, trong hàng ngũ họ đã từng có người chết và người bị thương, adrenaline dồn nén trong họ. Họ đã nhận lệnh: “Nhà có ma túy, nghi can có thể có vũ khí, bắt”. Lúc này họ đứng im lìm bên dãy thùng rác trong sân, đợi trong khoang thang và trước căn hộ, người nóng bừng dưới chiếc mũ sắt và mặt nạ trùm đầu. Họ đợi chỉ huy lên tiếng, người nào trong số họ cũng ngóng. Một lúc nào đó chỉ huy sẽ lên tiếng “Bắt đầu” và họ sẽ làm cái công việc mà họ được đào tạo.

Lão già bên cửa sổ nghĩ đến Hassan và các bạn gã. Mấy thằng đó có chìa khóa nhà lão, chúng thường đến đây vào buổi đêm, chúng làm các gói thuốc trong bếp, gọi là “pha chế”: hai phần ba heroin và một phần ba lidocain. Chúng dùng kích nâng xe hơi để ép thành những khối vuông vức, mỗi cục một cân. Hassan trả lão già mỗi tháng một ngàn euro, và gã trả đúng hạn. Tất nhiên là quá hậu hĩnh cho căn hộ một phòng rưỡi trên lầu bốn ở sân sau, hơi tối. Nhưng chúng ưa căn hộ của lão già, không có gì tốt hơn “hầm trú ẩn”, như bọn chúng vẫn gọi. Bếp đủ rộng, và chúng không cần gì hơn. Lão già ngủ trong phòng và bật ti vi khi bọn chúng đến để không phải nghe thấy tiếng chúng. Duy chỉ không có chỗ nấu ăn vì trong bếp bày la liệt ni lông, cân tiểu ly, bàn nạo và các cuộn băng dính. Tệ nhất là sau đó tất cả bị phủ một lớp bụi trắng li ti. Hassan đã giải thích cho lão biết các rủi ro, nhưng lão chẳng để tâm. Lão chẳng có gì để mất. Một món hời, đằng nào thì cả đời lão cũng chẳng nấu nướng gì. Lão rít một hơi thuốc và ngó lên trời: không một bóng mây, từ giờ đến tối sẽ còn nóng nữa.

Khi lão nghe tiếng cảnh sát thì họ đã phá bung cửa. Quá nhanh, và chống cự là vô nghĩa. Lão bị đẩy ngã xuống sàn, lộn qua ghế đẩu và gãy hai xương sườn. Người ta quát hỏi lão, bọn Ả Rập đâu. Vì họ quá ồn nên lão không nói gì. Cũng vì xương sườn đau nhức. Cả sau này lão cũng sẽ im lặng trước thẩm phán điều tra. Lão đã quá nhiều lần vào tù, lão biết lúc này quá sớm để nói, đằng nào họ cũng không để thả lão.

Lão già nằm trên giường, xà lim 178, nhà C trại tạm giam. Lão nghe tiếng chìa khóa và lão biết, lão phải nói gì đó với nữ nhân viên hoặc gật đầu hoặc cựa chân, không thì cô ta sẽ không đi. Cô ta sáng nào cũng đến, đúng 6 giờ 15, người ta gọi là “kiểm tra sống”, tức là liệu tù nhân đêm qua có bị chết hay tự sát không. Lão nói, mọi chuyện ổn cả. Nhiệm vụ của cô nhân viên cũng là nhận thư của lão và đem đi, nhưng lão không có ai để gửi thư, từ đó cô ta không hỏi nữa. Khi còn lại một mình, lão quay mặt vào tường. Lão trân trân nhìn màu sơn vàng nhạt quét trên hai phần ba bức tường, vệt phía trên màu trắng, sàn nhà xám nhạt. Trong này chỗ nào cũng thế.

Ngay lúc mở mắt lão đã nhớ hôm nay là ngày cưới của bà ấy. Và bây giờ lão lại nghĩ đến người đàn ông ngủ với vợ mình, với vợ lão.

Tất cả bắt đầu với cái áo lót. Lão nhớ lại tối mùa hè trước đây 22 năm, lão thấy nó dưới gầm giường, nhàu nhĩ và có vẻ nhớp nhúa. Cái áo lót không phải của lão, mặc dù vợ lão cứ bai bải cãi. Lão biết nó của người đàn ông kia. Từ đó trở đi cuộc đời lật sang trang khác. Cuối cùng thì lão dùng nó lau giày, nhưng việc đó cũng chẳng đem lại gì, và một lúc nào đó lão phải bỏ nhà ra đi, không thì lão chết mất. Vợ lão khóc. Lão không cầm gì theo, cả tiền bạc, cả ô tô, lão bỏ lại cả cái đồng hồ được vợ tặng. Lão bỏ việc, dù đó là một công việc tử tế, nhưng lão không thể đến chỗ làm, lão không chịu nổi bất cứ chuyện gì. Tối nào lão cũng nốc say bí tỉ, đều đặn và câm lặng. Rồi thành thói quen, lão đắm chìm vào thế giới của rượu, của những vụ phạm pháp lặt vặt và cơ chế bảo trợ xã hội. Lão không muốn gì khác. Lão đợi hồi kết.

Nhưng hôm nay khác. Người phụ nữ muốn nói chuyện với lão tên là Jana kèm cái tên họ với quá nhiều chữ cái. Họ nói với lão, đây không phải là sự nhầm lẫn nào cả, người ấy xin giấy phép vào thăm, mà để vào thăm thì không cần lão chấp thuận. Vậy thì đúng giờ hẹn lão ra phòng tiếp khách và ngồi cùng người phụ nữ ấy bên chiếc bàn dán vải nhựa xanh. Nhân viên giám sát cuộc nói chuyện ngồi trong góc và cố không quấy rầy.

Nàng ngắm nhìn lão. Lão biết mình xấu xí, mũi và cằm mấy năm nay rúm ró vào nhau, đầu lão lơ thơ vài sợi tóc, râu ria lởm chởm bạc phếch. Dù vậy nàng ngắm lão. Nàng ngắm lão như từ nhiều năm nay không ai ngắm lão nữa. Lão gãi cổ. Rồi nàng nói với âm sắc Ba Lan rằng tay lão đẹp, lão biết nàng nói dối, nhưng cách nàng nói câu ấy thì ổn. Nàng đẹp. Như Đức Mẹ đồng trinh trong nhà thờ ở làng, lão nghĩ bụng. Hồi còn nhỏ, trong thánh lễ Chúa Nhật, lão luôn nhìn chằm chằm hình Đức Mẹ đồng trinh, hình dung ra Chúa trong bụng Đức Mẹ và tự hỏi, Chúa đã vào đó bằng cách nào. Jana đang có mang bảy tháng, tất cả những gì trên người nàng đều tròn trịa và bừng bừng sinh lực. Nàng rướn người qua bàn và chạm đầu ngón tay vào má hóp của lão. Lão trân trân nhìn vào vú nàng, rồi lão xấu hổ vì hành động đó và nói: “Tôi không còn răng nữa”. Lão gượng cười. Nàng gật đầu vui vẻ. Họ ngồi với nhau hai mươi phút và không nói gì nữa, dù chỉ một câu. Nhân viên giám sát quen rồi, không hiếm khi tù nhân và khách đến thăm chẳng có gì để nói với nhau. Khi ông ta báo là giờ thăm thân đã hết, nàng đứng dậy, vươn người nhanh về phía trước và nói thầm vào tai lão: “Con em là của Hassan đấy”. Lão ngửi mùi nước hoa của nàng, lão cảm thấy tóc nàng trên khuôn mặt già nua của mình. Nàng đỏ mặt. Xong. Rồi nàng đi ra và lão được đưa trở về phòng. Lão ngồi trên giường và nhìn chòng chọc xuống tay mình, nhìn những nốt đồi mồi và sẹo, lão nghĩ đến Jana và đứa bé trong bụng nàng, lão hình dung ở đó ấm áp và bình yên ra sao, và lão biết mình phải làm gì.

Khi Jana về đến nhà, Hassan đang ngủ. Nàng cởi đồ, dụi lưng vào cạnh gã, cảm thấy hơi thở của gã trên gáy mình. Nàng yêu gã trai này, điều mà nàng không thể tự giải thích. Gã khác với bọn trai làng nàng bên Ba Lan, gã trưởng thành, và da gã mềm như nhung.

Lát sau, khi gã tỉnh giấc một thoáng, nàng nói cho gã biết là lão già sẽ không khai gã ra, gã cứ yên tâm. Nhưng gã phải làm cho lão một việc, gã phải trả tiền răng giả cho lão, nàng đã nói chuyện với một nhân viên xã hội có thể lo liệu việc này. Sẽ không ai rõ ngọn nguồn. Nàng nói hấp tấp, nàng đang bị kích động. Hassan xoa bụng nàng cho đến khi nàng thiếp đi.

“Thân chủ của ông có muốn cung cấp thông tin về những kẻ giật dây? Trong trường hợp đó, rất có thể tòa án nghĩ đến khả năng miễn trừ biện pháp ngăn chặn cho ông ta”. Tôi đã nhận vụ bào chữa từ thiện này và xin thẩm định biện pháp tạm giam. Mọi chi tiết đã thương lượng xong với tòa án, thân chủ của tôi sẽ được thả. Vụ này không phức tạp. Cảnh sát tìm thấy 200 gam heroin trong căn hộ của ông ta. Nhưng điều tệ hơn là: lão còn có một con dao trong túi. Pháp luật gọi đó là “thực hành buôn bán có vũ khí”, chế tài tối thiểu - như tội gây chết người - 5 năm tù. Bằng cách đó luật pháp muốn bảo vệ cảnh sát trước sự tấn công. Lão già phải khai tên thủ phạm thật, dường như đó là cơ may duy nhất của lão. Nhưng lão im lặng. “Vậy thì tiếp tục tạm giam”, thẩm phán nói và lắc đầu.

Lão già hài lòng. Cô gái Ba Lan sẽ không phải sinh hạ trong cô đơn. “Chuyện đó quan trọng hơn mình”, lão nghĩ, và ngay trong khi nghĩ thế thì lão biết là đã đạt được một mục tiêu cao xa hơn cả sự tự do của mình.

Phiên xử diễn ra bốn tháng sau. Người ta đưa lão từ trại giam đến phòng xử án. Họ phải dừng chân một lát trước cây thông Giáng sinh ở đường chính trong trại giam, một cái cây khổng lồ và lạ lẫm, ánh nến điện phản chiếu lấp lánh trong những quả cầu treo ngay ngắn, quả to ở dưới, quả nhỏ ở trên. Dây điện từ cuộn cáp đỏ được dán xuống nền đất bằng băng dính in chữ cảnh báo vàng - đen. Cả những việc như thế cũng phải tuân thủ quy định an toàn.

Các thẩm phán biết ngay lão già không phải là chủ sở hữu chỗ ma túy, lão lấy đâu ra nhiều tiền như thế. Mặc dù vậy mức phạt tối thiểu vẫn là 5 năm tù. Không ai muốn tuyên án nặng như thế, vì thế là bất công, nhưng dường như không có cách nào khác.

Trong lúc giải lao có một chuyện khó hiểu: ông già ăn bánh mì với phô mai, ông cắt nó thành từng mẩu nhỏ xíu với một con dao nhựa. Thấy tôi quan sát, ông xin lỗi, ông không còn răng nữa và phải thái nhỏ mọi thức ăn. Phần cuối thật đơn giản. Vì thế - và chỉ vì thế - lão đã có con dao trong túi: có nó thì lão mới ăn được. Tòa án Liên bang từng có một phán quyết rằng không được áp dụng định nghĩa “thực hành buôn bán có vũ khí”, khi con dao rõ ràng mang một mục đích khác.

Chuyện hàm răng có thể là một cách giải thích không bình thường, nhưng đó cũng là phiên xử án cuối cùng của năm. Tất cả đang trong tâm trạng thanh thản, giờ giải lao công tố viên kể về các món quà mà ông chưa mua, và mọi người tự hỏi liệu còn khả năng tuyết rơi nữa không. Rốt cuộc tòa án hình sự tuyên án 2 năm tù treo và lão già được ra tù.

Tôi tự hỏi, lão sẽ làm lễ Giáng sinh ở đâu, vì nhà lão đã bị cắt hợp đồng thuê và lão không có ai để ở nhờ. Tôi đứng trên lầu và nhìn lão chậm rãi đi xuống cầu thang.

Đúng hôm Giáng sinh lão nằm trong bệnh viện. Lẽ ra cuộc phẫu thuật diễn ra vào mùng 2 tháng Giêng, nhưng bệnh viện hối thúc lão phải nhập viện ngay sau khi ra tù, họ sợ lão lại bập vào bia rượu trở lại. Nhân viên xã hội đã sắp xếp xong xuôi mọi việc, nhưng khi được tin thì thoạt tiên lão không chịu. Nhưng rồi lão nghe kể có “một cô Jana” - theo lời nhân viên xã hội - đã thanh toán trước hàm răng giả ở bệnh viện. Và vì nàng trả tiền, lão làm như thể đó là người nhà, và chấp thuận.

Giường bệnh viện sạch sẽ, lão tắm và cạo râu, người ta đưa lão bộ đồ ngủ in hoa vàng. Trên bàn ngủ có một ông già Noel bằng sô cô la. Phần ngực bị móp, trông méo mó một cách khôi hài. Lão thích, “trông giống mình”, lão nghĩ. Lão hơi sợ mổ, các bác sĩ sẽ lấy một mảnh xương hông, nhưng lão mừng vì có răng mới, vài tháng nữa là lão lại có thể ăn uống bình thường. Khi thiếp đi, lão không còn mơ thấy cái áo lót dưới gầm giường mình nữa. Lão mơ thấy Jana, thấy làn tóc của nàng, mùi hương của nàng và bụng nàng, và lão thấy viên mãn.

Cách đó chừng hai cây số, Jana ngồi trên sofa và kể chuyện Giáng sinh cho đứa bé nghe. Nàng đã nấu món barszcz cho Hassan. Món này khó làm, nhưng nàng thạo, mẹ nàng nhờ món đó mà nuôi sống cả gia đình nhỏ ở Karpacz, miền tây nam Ba Lan, sau khi cha nàng qua đời. Món barszcz bằng thịt bò và củ dền đỏ cho khách du lịch đói ngấu trong các cuộc lữ hành ở miền sơn cước, đó là thời thơ ấu của cô. Mẹ nàng cùng những người đàn bà khác ngày nào cũng đứng ngoài trời lạnh với nồi niêu và bếp gas, và họ quẳng mớ rau đã ép hết nước lên mặt tuyết sau lưng. Jana kể cho đứa bé nghe về tuyết đỏ mà người ta có thể nhìn thấy từ xa, về mùi thơm của xúp và bếp. Nàng nhớ đến ngôi làng mình ở trên núi, nhớ gia đình mình, và nàng kể về lễ Giáng sinh, về những ngọn đèn vàng và món ngỗng quay do bác Malek làm. Bác có một cửa hiệu bánh mì và hôm nay chắc chắn sẽ nướng cái bánh ngọt to nhất.

Chắc Hassan sẽ không quay lại, nàng biết. Nhưng Hassan đã ở bên cô khi đứa bé chào đời, đã nắm chặt tay nàng và lau mồ hôi trên trán nàng. Và giữ bình tĩnh khi nàng la hét, luôn bình tĩnh vào thời điểm quyết định, và nàng tin rằng sẽ không có gì xảy ra với mình, chừng nào Hassan còn đó. Nhưng nàng luôn linh cảm là Hassan sẽ đi, Hassan còn quá trẻ. Nàng chỉ có thể sống an lành khi yêu Hassan từ xa. Đột nhiên nàng thấy cô đơn, nàng thấy thiếu vắng ngôi làng và gia đình mình, thiếu đến quặn lòng, và nàng quyết định mai sẽ lên tàu về Ba Lan.

Hassan lái xe qua thành phố. Gã không thể đến với nàng, gã không biết nên nói gì. Người ta đã hứa gả gã cho một phụ nữ khác ở Lebanon. Gã phải cưới cô ta, cha mẹ gã đã ấn định như thế từ khi gã còn bé. Jana là một người phụ nữ tốt, nàng đã cứu gã trước nguy cơ tù tội, nàng trong sáng và đơn giản trong mọi chuyện. Dần dần gã nổi máu điên, điên vì chính mình, vì gia đình mình, và vì tất cả. Đúng lúc ấy gã thấy thằng cha kia.

Hắn vừa ra khỏi một cửa hiệu, hắn vừa mua những món quà cuối cùng. Hắn nợ Hassan 20.000 euro và cứ thế biến mất tăm. Hassan tìm hắn đã mấy tuần nay. Hassan dừng xe, lấy cây búa từ hộc đựng găng tay và theo chân thằng kia đến tận cổng vào một tòa nhà. Gã thụp cổ, đẩy thằng kia vào tường. Mấy túi quà rơi xuống đất. Thằng kia nói, hắn cũng muốn trả tiền, duy chỉ không nhanh như mong muốn. Hắn lạy lục. Hassan không nghe hắn nữa, chỉ trân trân nhìn các gói quà nằm trên lối đi, nhìn hình ông già Noel in trên giấy và dải lụa buộc óng ánh vàng, và đột nhiên tất cả cùng lúc hiện lên trong đầu gã: Jana và đứa bé, cái nóng hầm hập ở Lebanon, cha gã và người vợ tương lai, rồi gã ngộ ra rằng gã không thể thay đổi được bất cứ điều gì nữa.

Tất cả kéo dài quá lâu, sau này một người hàng xóm kể, giữa những hồi gào rú ông nghe tiếng phầm phậm, ướt và đục, như ở hàng thịt. Khi cảnh sát kéo được Hassan khỏi thằng kia, mồm hắn chỉ còn là một đống bầy nhầy máu me: Hassan đã lấy búa đập gãy mười một cái răng.

Tối hôm đó quả thực có tuyết rơi. Đang mùa Giáng sinh. ■

(Lê Quang dịch)

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận