Các ông nội đứng sau cổng thời gian

NGUYỄN VŨ HIỆP 19/11/2025 15:16 GMT+7

TTCT - Tôi muốn làm đám giỗ cho ông nội lưu niệm, với vàng mã bao gồm vợt cầu lông. Tôi càng muốn làm đám giỗ tôi, để đốt cho mình những kỷ vật của vài cuộc đời tôi chưa kịp sống.

Các ông nội đứng sau cổng thời gian - Ảnh 1.

Minh họa

Tôi nghĩ vậy khi đứng bên ngôi mộ mới lấp của ông tôi và hóa vàng. Gió mạnh, trời cao, những bông bồ công anh trên nấm mộ láng giềng đu đưa như vài mặt trăng trong suốt mà gió ăn dần khuyết. Nhà giấy, xe giấy, người giấy rã thành những cánh hoa thoi thóp lửa và bay về trời, bỏ lại người thân nằm im. Nếu việc đầu tiên ông tôi bận tâm khi sang cõi khác là sắm xe sắm nhà, thì cõi khác cũng tục như cõi này, không hề khác, tôi thầm nghĩ.

Rồi tôi lén nhịn cười, khi thấy bộ đồ vàng mã mà cha tôi đốt cho ông hầu như mô phỏng các mốc cuộc đời mà cha muốn tôi theo đuổi. Mua xe, mua nhà, lấy vợ, đầu cơ vàng hoặc đô - ấy là toàn bộ thời gian tôi được có. Ông tôi vừa mất, liền biến thành con trai của cha tôi, và cha đang gửi những mục tiêu bằng giấy để hướng ông làm lại cuộc đời. Tương lai sẽ không xảy đến này được bồi thêm bằng áo the, khăn xếp và con ngựa hồng nhà quan - một quá khứ mà dòng họ chúng tôi chưa từng có.

Cha tôi tiếc thời gian, vì lý do dễ thông cảm. Việc cất bớt một đôi đũa thừa trong giờ cơm cũng không khác việc nhổ một cái răng sâu khỏi nụ cười của thời gian đầm ấm. Thời gian ấy thét lên, kêu đau trong bữa cơm, và không còn nuốt trôi chúng tôi. Cha mua bộ đồ vàng mã, vờ như người thân còn sống, coi thỏi vàng giấy như cái răng vàng để trám đi khoảng trống. Nhoẻn hàm răng ngoại lai, thời gian bắt đầu tiêu hóa tôi theo cách kỳ lạ. Mỗi lần đốt vàng mã, tôi nhớ sự nghiệp hơn nhớ ông. Tiệm vàng mã không bán những kỷ niệm riêng tư, như cặp vợt cầu lông bằng giấy để nhắc ông đánh cầu với tôi mỗi buổi chiều hè. Nó sản xuất những thời gian đại trà, và những ông nội đại trà về nhà vào ngày giỗ hằng năm, chầm chậm thế chân ông nội trong kỷ niệm.

Trong cuộc chiến giữa các ông nội, tôi sẽ theo phe ông nội trong kỷ niệm. Ông nội vàng mã quá bận để đánh cầu với tôi, còn ông nội bằng xương thịt, nếu hồi sinh như nguyên trạng cuối đời, thì lại quá yếu. Vả lại, nếu quyền hồi sinh ấy được phân phát theo cách công bình, nó sẽ khiến phố phường tràn ngập các ông nội, bao gồm tôi về sau. Con cháu tôi, cũng như tôi, nên bằng lòng với một ông nội lưu niệm gọn nhẹ - người chỉ nằm gọn trong, để trang trí cho, các truyện kể xinh xinh trong đầu óc.

Dù vậy, tôi cũng biết nước mình còn nghèo, và dân mình không thể không tiết kiệm ông nội. Nếu tính chi li từng khoản, một mâm cỗ chay cầu siêu của đạo Phật chắc chắn lãng phí hơn một mâm giỗ mặn, vì nếu chẳng may ông nội siêu thoát hoặc đầu thai, năm sau ông sẽ không phù hộ chúng tôi nữa. Ông nội bằng xương thịt cũng không phù hộ, ông nội lưu niệm thì tất nhiên không. Sự phù hộ chỉ có nơi ông nội vàng mã, giàu mạnh hơn ông nội bằng xương thịt khi còn sống. Vì vậy, tôi phải mời ông về nhà hằng năm, bằng cách đốt hương hỏa để mở cổng thời gian. Mãi nhòm qua những lỗ khóa lửa để tìm ông tôi, hoặc tìm tôi đứng nơi bờ bên kia, tôi dần hiểu cách vận hành cánh cổng.

Con người nhận thức về thời gian thông qua các hình tượng không gian, George Lakoff tin vậy. "Không ai tắm hai lần trên một dòng sông" - Heraclitus nhìn nước chảy xuôi dòng mà mường tượng ra thời gian tuyến tính, cuốn ông nội tôi trôi đi mất tích. Nhưng nhìn ánh lửa hắt xuống từ các thiên thể, ta lại hình dung thời gian xoay tròn, trả ông nội về nhà sau một vòng tuần hoàn tính bằng ngày, tháng, năm. Mặt trời cháy rực lại sau nửa ngày vùi khuất đêm tro, trăng nóng trắng ngày rằm rồi nguội lạnh cuối tháng, những tàn sao leo lắt sẽ trở về vị trí cũ sau một năm lang thang sông Ngân, và khi mặt trời đã xoay xong một vòng, lá bàng no nắng sẽ trả lửa về đất. Mượn những đốm lửa trời như "nhật", "nguyệt", người xưa đã khắc các đơn vị thời gian lên một cái thước vô hình, mà chúng ta dùng để may đo những cuộc đời vừa vặn cho nhau, và quất vào đít để giục nhau nhanh lên. Khi cố nhân lần lượt nằm xuống, chỉ còn nhật nguyệt cùng họ thề ước.

Trong tín ngưỡng thờ Trời ở Á Đông, tuần nhang đỏ hồng tượng trưng cho đốm lửa trời tuần hoàn theo năm, tháng. Tôi thắp nhang, nâng ông nội lên vòng đu quay sao trời, để ông chơi mây trắng tròn một năm, rồi mời ông về ăn giỗ hay tất niên. Lửa đại diện cho thời gian cũng vì nó mang hơi ấm, như thời gian sống một con người. Từ xưa, trong điếu văn, người đã chết như một vì sao tắt. Và dòng họ tuyệt tự khi nhang đèn nguội lạnh. Chọn bất tử thay vì siêu thoát, chúng ta nối dài thời gian, bằng cách tạo thêm con cháu ở đầu này, và tạo thêm ông nội bên đầu khác.

Trong công cuộc thắp lửa tình để đẻ con và thắp lửa thờ để sinh thêm ông nội, có lẽ tiền âm phủ chỉ là lớp vỏ, chính lửa là tiền tệ thời gian. Để sản xuất những ông nội sống động hơn ông nội vàng mã của tôi nhiều lần, người xưa từng chi những thời gian cực lớn. Năm 921, một sứ giả Ả Rập tên Ahmad ibn Fadlan đã ghi nhận tục hiến tế người trong đám tang của một thủ lĩnh người Rus, được cử hành trên sông Volga. Trong gia sản của người chết, họ chọn ra một nữ nô lệ tình nguyện chết theo chủ. Người tình nguyện, lần đầu tiên trong đời, sẽ có một tuần được ăn uống no say, được trân trọng, được nhàn rỗi. Hạnh phúc ngắn và muộn màng này kết thúc trong tang lễ... Người ta đặt xác nàng, chủ nhân, bò, ngựa, chó lên một con tàu chất đầy tài sản rồi đốt, lửa bốc cao hóa tàu thành tro sau một giờ. Các ông chủ ngăn nô lệ đến gần nơi cử hành nghi thức đỏ thẫm, để họ không nghe tiếng hét của tế vật mà sợ khi cần tự nguyện chết. Trong mười ba thế kỷ trước thời hiện đại, để ngăn các góa phụ ngủ với người khác sau lễ tang chồng, người Ấn Độ cũng ép họ tự nguyện nhảy vào ôm chồng trên giàn thiêu. Thay vì dùng đời mình để trả thuế thời gian như cổ nhân, bà tôi đã mua một hình nhân giấy rồi đốt.

Dù khác dân tộc, thời đại, giai cấp, những phận người vàng mã vừa kể hình như cũng hao hao ông nội vàng mã của tôi. Đẩy được một bà vợ Ấn Độ vào lửa, cả họ liền thở phào; bao nhiêu kỷ niệm giữa họ với người ấy cháy tàn trong tiếng thét lên mây, người ấy giãy thêm một lúc rồi co lại còn một sự thủ tiết. Lúc đầu thì chuyện này cũng quý thật. Nhưng khi bà vợ Ấn Độ nào cũng nhảy vào lửa để làm dòng họ rạng danh, một bà vợ thủ tiết đã hóa ra một bà vợ đại trà, mà người ta quên khuấy đi khi dự những tang lễ mới. Bên nước mình cũng vậy, mình nhắc đến người đã khuất ít dần sau từng ngày giỗ; và tôi đã dự nhiều đám giỗ những họ hàng mà tôi chưa gặp hoặc không nhớ mặt, cùng những đám giỗ mà tôi cũng chẳng biết là của ai. Sớm thôi, ông tôi sẽ thành tế vật cho ngày giỗ của chính mình - một dịp mà dòng họ tôi hẹn nhau liên hoan, ai cũng vui cười không tiếc nhớ.

Ông nội tôi không phải là người duy nhất cần dâng hiến riêng tư cho công cuộc chung của tập thể. Đau nhất phải là con gà trống có bộ lông đỏ lửa, cái mào rực lửa, và những giọt tiết rỏ lửa, mà bàn thờ gia tiên nào cũng cần để xiển dương sức sinh sản nam. Ba tháng trước khi về gặp ông nội, nó bị thiến, để vỗ béo, cho đẹp bàn thờ. Đau nhì là những trai gái còn son; đời họ bị là phẳng thành nửa tấm thiệp mừng mà họ nợ những bà dì hỏi thăm xem bao giờ cưới. Nếu nhân phẩm và học thức rên lên được, chúng sẽ đau cho những người gia trưởng bị ép đi ăn giỗ, rồi bị rượu biến thành những sinh thể có trí tuệ thô phác ngang tầm con ếch đực mùa xuân. Sau cùng, dù phải vất vả cỗ bàn hoặc hay bị đánh vào mông, các mẹ và các bé lại hay vô sự trong lễ giỗ. Ngồi túm tụm thành một mâm riêng - nơi các mẹ che miệng thì thầm vào những lỗ tai ngồi kề, còn các bé xã giao bằng tiếng khóc - họ bảo vệ con tim và khối óc mình bằng những lối giao tiếp bí mật, bất khả giản lược, chỉ làm phức tạp thêm cả tình hình lẫn con người ta. Bởi vậy, viện cớ không thể uống rượu vì sợ công an bắt xe, tôi luôn rời mâm nam để đi tị nạn tâm hồn bên mâm cỗ nữ. Nhờ thói chõ đũa hai mâm này, tôi sớm học được rằng ở cả mâm nam lẫn nữ, những người ăn giỗ hiếm khi nhắc đến nhân vật chính của sự kiện, tức người đang ngồi sau bát nhang. Có thể nói rằng ông nội tôi, cũng như nhiều ông nội của mọi nhà, đã bị tế ngay cho những cuộc chuyện vui về Thế chiến III hay thị trường rau muống.

Chúng tôi ngồi quanh mâm, gắng nuốt những gan ruột riêng tư và nuốt ông nội trong kỷ niệm. Làm vậy không hề xấu: cái xấu nằm trong sự ích kỷ, còn chúng tôi ai cũng hy sinh. Mỗi lần thắp ngọn lửa tế tự, tôi lại thắp một dấu chấm le lói trong văn bản thời gian dằng dặc, để khép câu trước lại và mở ra câu sau. Dấu chấm bắt câu trước im, một cách rất giàu nghĩa, và câu sau mượn nghĩa này để viết ra mình trong mò mẫm. Nếu tự tổ chức đám ma cho mình và tự làm đám giỗ hằng năm, mỗi chúng tôi sẽ sống cho riêng mình một đời thơ thơm phức bao vần mộng. Nhưng vì chỉ ăn giỗ người khác, và ăn như một việc công, chúng tôi phải sống chen trong cùng một giấc mộng, tức một thực tế phổ thông. Như Thế chiến III chẳng hạn, ai cũng có quyền và nghĩa vụ tham gia, rồi chết chung theo cách công bình. Giả sử mỗi cọng rau đều có đời sống và phẩm giá riêng đi, cuộc sống chung vẫn đòi hỏi chúng mình phải cắt rau thành bó và bán rau đồng giá.

Tôi đã mượn những niềm tin này làm thuật xã giao kiêm đạo đức, cho đến khi nhận ra chúng không hẳn đúng. Chúng chỉ đúng khi đại gia đình còn cày chung một mảnh ruộng, nên buộc phải chung sống theo thời gian biểu của bốn mùa, được ghi khắc trên những đốm lửa sao. Bây giờ biến đổi khí hậu, người ta cày bốn mùa đến vữa ra rồi. Quan trọng hơn, gia đình không cày chung mảnh ruộng nữa, nên đất đai cũng được chia đều cho các con gái và trai, thay vì để ông trưởng nam nắm hương hỏa giữ. Vô phúc cho những nhà có ruộng, hễ thắp nhang cúi lạy cha mẹ là phải bầm mặt ngồi giành nhau đất đai. Thế thì thôi, bỏ quách cái đồng hồ lửa ấy đi mà sống.

Tôi muốn làm đám giỗ cho ông nội lưu niệm, với vàng mã bao gồm vợt cầu lông. Tôi càng muốn làm đám giỗ tôi, để đốt cho mình những kỷ vật của vài cuộc đời tôi chưa kịp sống. 

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận