Leo hai nấc thang cao nguyên, nhớ những cánh rừng

LƯU VĨ LÂN 14/04/2013 19:04 GMT+7

TTCT - Ghi chép từ một cuộc khảo sát nhỏ cuối tháng 3-2013 về mối tương quan giữa những con đường và cánh rừng mà nó đi qua khi leo lên hai nấc thang địa hình tiến về cao nguyên Lâm Viên (tức cao nguyên Lang Bian nơi có thành phố Đà Lạt).


Các vạt rừng bị đốn hạ dọc theo đường 722 đoạn từ Lán Tranh đến Đưng K'Nớ (ảnh chụp ngày 24-3-2013) - Ảnh: Duy Anh

Mục tiêu của chúng tôi là tiến về Đà Lạt đi sâu vào rừng quốc gia Bidoup - Núi Bà, nhưng không dùng đoạn đường Dầu Giây và quốc lộ 20 thông thường, mà đi thẳng đến ranh giới của Đồng Nai và Bình Thuận rồi mới rời bỏ quốc lộ 1, rẽ trái đâm xuyên vào địa danh Rừng Lá cũ.

Nấc thang thứ nhất: Rừng lá trụi lá

Ai cũng biết từ đồng bằng Đồng Nai - Bình Thuận đi lên, trước hết ta sẽ gặp nấc thang địa hình đầu tiên ở độ cao 1.000m, đó là cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh. 

Ở đây có hai con đường chạy xuyên đồng bằng Bình Thuận rồi đột ngột leo các dốc núi để lên cao nguyên này, đó là tỉnh lộ 713 vươn ở mức thấp chỉ tới chân đèo Bảo Lộc và bạn phải leo tiếp đèo này mới tới được thị xã Bảo Lộc; và đường thứ hai là quốc lộ 55 thì đến ngay thị xã Bảo Lộc bỏ qua con đèo này. Đồng bằng chứa hai con đường này hơn 30 năm trước mang một địa danh nổi tiếng là Rừng Lá.

Năm 1973, lần đầu tiên tôi được đi đường bộ dọc chiều dài miền Nam Việt Nam từ Huế vào Sài Gòn, khi vừa qua khỏi thị xã Phan Thiết một đoạn (lúc ấy thuộc tỉnh Bình Tuy), người tài xế thông báo chú ý vì xe bắt đầu đi vào khu vực Rừng Lá.

Đây là một đoạn đường “mất an ninh” vào lúc đó vì ai cũng biết nằm sau khu rừng lá buông và nhiều kiểu rừng nhiệt đới khác rất hoang vu và hiểm trở dọc theo đoạn quốc lộ 1 này là vùng đất của cách mạng với các chiến khu nhỏ nối dài từ núi Chứa Chan, các ngọn núi sát đồng bằng rồi tiến dần vào vùng rừng núi cực nam của Trường Sơn Nam để kết nối với Chiến khu D, một căn cứ cách mạng hiểm trở nằm dựa vào các cao nguyên Đắk Nông, Bảo Lộc - Di Linh.

Nói vậy để thấy rằng vào lúc đó, đây là một vùng rừng rậm rạp vươn sát đến đường quốc lộ. Tôi còn nhớ khi xe vào khu vực này thấy bìa rừng nằm cách đường quốc lộ chỉ vài chục mét, hoang vắng và kéo dài như vô tận vào trùng điệp núi rừng của dãy Trường Sơn Nam.

Còn giờ đây chúng tôi đã đi vào trung tâm rừng lá bằng xe hơi sang trọng và oai vệ trên con đường trải nhựa phom phom. Hai bên là đồng bằng nhìn thấu đến chân trời. Cần biết rằng kiểu tiếp cận cao nguyên trực tiếp từ đồng bằng Bình Tuy cũ này chính là cách mà người Pháp đã thành công trong việc mở con đường đầu tiên để xâm nhập cao nguyên Việt Nam.

Nếu năm 1883 bác sĩ Yersin đặt chân lên cao nguyên Lâm Viên thì bốn năm sau, năm 1887, đoàn thám hiểm do đại úy Thouard nghiên cứu mở đường từ Nha Trang lên Lâm Viên, sau 11 tháng đã chứng minh không thể đi theo cách này. Năm 1898, các đoàn của Garnier, Odhéra, Bernard đã khảo sát con đường từ Phan Thiết nối Di Linh để đi Đà Lạt và năm 1913 (cách đúng 100 năm so với hôm nay) thì đường này được đưa vào hoạt động (nay là quốc lộ 28). 

Chúng tôi đã thấy xuất hiện những “nhát cắt” gây xót xa da thịt của núi rừng: rất nhiều vạt rừng bắt đầu bị triệt hạ dọc theo con đường 722 đi xuyên qua vùng cao nguyên tuyệt đẹp này. Những vạt rừng vừa mới bị chặt, cây vẫn còn nằm tại chỗ chưa kéo đi, những cánh rừng chỉ còn trơ gốc và bắt đầu có dấu vết đốt rừng làm rẫy, những ngọn đồi gần như đã trọc hoàn toàn chỉ còn lờ mờ dấu vết của các gốc cây bị hạ...

Hai tuyến tỉnh lộ 713 và quốc lộ 55 mà chúng tôi vừa đi nằm song song với con đường được khai phá từ năm 1898 ấy.

Ngẫm chuyện xưa để thấy rằng 100 năm trước mở đường vô cùng gian khó. 40 năm trước rừng rậm chiến khu bao phủ cả vùng đất này. Còn nay, vùng đất đã bắt đầu thấy dấu vết của đô thị hóa, vì suốt 60 cây số của tuyến tỉnh lộ 713 từ chân núi của cao nguyên Di Linh đến quốc lộ 1 là một đại lộ thẳng tắp toàn là phố vì kết nối các thị trấn kề nhau: Võ Xu, Đức Tài, Tân Hà, Tân Hợp, Giá Rai..., còn cổng vào của khu di tích chiến khu Núi Chứa Chan nay đã nằm ngay mặt lộ này với cổng chào tươm tất như một khu vui chơi giải trí ở chốn đô thành.

Phần rừng nơi đây đang nhường chỗ cho nương rẫy - Ảnh: Duy Anh

Nấc thang thứ hai: biết ra sao ngày sau?

Vùng Tây nguyên Việt Nam hình thành trên các dãy núi của Trường Sơn Nam là nơi tọa lạc của năm cao nguyên. Điều kỳ lạ là nếu kẻ một đường thẳng đứng đúng trên kinh độ 108 chạy dọc Tây nguyên, bạn sẽ thấy các cao nguyên này xếp lớp thẳng tắp như chồng lên nhau dọc theo đường kinh độ này. Các nhà địa lý gọi đây là “các cao nguyên xếp tầng”.

Ta thấy ở trên cao về phía bắc có cao nguyên Kon Tum - Pleiku cao 400-800m, kế tiếp bên dưới là cao nguyên Đắk Lắk có độ cao tương tự, sau đó cao vọt hẳn lên là cao nguyên Lâm Viên cao đến 1.500m, sau đó dưới chân đèo Prenn là cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh cao 1.000m, chếch một chút về phía tây gần biên giới Campuchia có cao nguyên Đắk Nông với độ cao tương tự.

Dĩ nhiên, quý giá nhất có lẽ là cao nguyên có bậc thang cao nhất: cao nguyên Lâm Viên, mà ở góc đông bắc của cao nguyên là nơi tọa lạc vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà. Nói một cao nguyên quý giá vì đó là một vùng đất có địa hình đặc biệt, một vùng tương đối bằng phẳng nằm cao vượt hẳn các vùng đất xung quanh giúp tạo ra một vùng khí hậu khác biệt, vùng thổ nhưỡng, đất đai, thảm thực vật khác hẳn...

Từ Đà Lạt, cực nam của cao nguyên Lâm Viên có hai con đường hướng về phía bắc xuyên qua cao nguyên và đều cắt ngang khu vực vườn quốc gia, một là đường 723 theo hướng đông bắc để nối với Nha Trang (con đường mà hồi năm 1887, đại úy Thouard sau 11 tháng nghiên cứu đành bỏ cuộc), đây là một con đường trải nhựa rộng lớn hiện đã trở thành một giao lộ chính nối Đà Lạt và Nha Trang từ vài năm qua; và hai là đường 722 đi theo hướng chính bắc xuyên qua tim của cao nguyên, cắt vườn quốc gia ở đèo Cổng Trời hướng về phía tỉnh Đắk Lắk.

Đây là con đường chưa được khai phá, hiểm trở, hoang vắng và kỳ bí đối với người muốn khám phá hết cái bí ẩn của cao nguyên và của Đà Lạt. Từ trung tâm thành phố ta phải đi 20 cây số về khu vực hồ Dankia - Suối Vàng tuyệt đẹp và hoang sơ.

Bỏ khu vực Suối Vàng lại phía sau, ta phải mất 12km nữa mới đến được khu vực Cổng Trời để bắt đầu bước vào vườn quốc gia. Ở đây ta gặp bia ghi nhớ chín liệt sĩ của ngành y tế Lâm Đồng đã thiệt mạng hồi năm 1980, cũng ở khu vực này hồi năm 1978, tôi được biết một đoàn các nhà khảo sát địa chất đã bị thiệt mạng bởi quân phiến loạn Fulro.

Sau Cổng Trời đường đi cực kỳ khó khăn và chỉ có thể di chuyển bằng xe gắn máy. Xung quanh là những cánh rừng bạt ngàn với rừng thông bát ngát xen kẽ rừng thường nhiệt đới, những cánh rừng rậm ba tầng đầy đe dọa. Chúng tôi mất thêm 30km nữa để đến nơi không còn đường đi, đó là điểm dân cư K’Nơ thuộc xã Đưng K’Nớ.

Điều đáng nói nhất là chúng tôi đã thấy xuất hiện những “nhát cắt” gây xót xa da thịt của núi rừng: rất nhiều vạt rừng bắt đầu bị triệt hạ dọc theo con đường 722 đi xuyên qua vùng cao nguyên tuyệt đẹp này. Những vạt rừng vừa mới bị chặt, cây vẫn còn nằm tại chỗ chưa kéo đi, những cánh rừng chỉ còn trơ gốc và bắt đầu có dấu vết đốt rừng làm rẫy, những ngọn đồi gần như đã trọc hoàn toàn chỉ còn lờ mờ dấu vết của các gốc cây bị hạ...

Khi dừng lại hỏi thăm các cư dân ở khu dân cư K’Nớ, chúng tôi được biết hầu hết là người dân tộc thiểu số và hiện nay rất nhiều người đang làm rẫy cà phê.

Năm 1912, trong cuốn sách nổi tiếng Rừng Người Thượng (Les Jungles Moï) nhà thám hiểm người Pháp Henri Maitre đã viết về cao nguyên Lâm Viên “...diện tích của cao nguyên khoảng 400km²...Phía bắc nhô lên một mép mọc toàn thông, cao từ 1.700-1.850m, qua đấy ta có thể đi vào vùng núi non dày đặc đổ xuống triền sông Kr. Knô; ở mặt này, hai hoặc ba hàng rào núi non song song phủ dày thông và rừng già...

Như vậy, cao nguyên này là một lòng chảo mặt nào cũng bị ngăn lại bởi các dãy núi chặn và các gờ mép núi, nhờ có độ cao lớn khí hậu ở đây đặc biệt ôn hòa... Đáng tiếc đường lên đây là một việc rất khó khăn, mặt nào cũng bị vây bọc bởi các dãy núi dựng đứng; đây là một bệ đất treo cao trên những bức tường dày, một vọng lâu của tháp pháo đài...”.

Cách mô tả của Henri Maitre về sự cách biệt, hiểm trở của cao nguyên thật hình ảnh. Nhưng, điều ông tiếc vì thiếu những con đường dễ dàng để “leo” lên “vùng đất treo cao” này có thể sẽ được ông nói ngược lại nếu ông còn sống, và thấy những con đường đang dần xuyên sâu vào vùng đất này 101 năm sau ngày ông công bố tác phẩm của mình.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận