David Grossman: Văn chương giữa nỗi đau riêng và cơn bão thời cuộc

NICOLAS WEILL (LE MONDE) 27/08/2025 10:28 GMT+7

TTCT - Nhà văn, nhà trí thức cánh tả Israel chia sẻ về bốn thập niên viết lách như một cách sống, gắn với chính trị, những mất mát trong đời và niềm tin vào sức mạnh của ngôn từ.

David Grossman hiện nay 71 tuổi, sống ở Jerusalem. Ông chắc hẳn là một trong những tác giả, trí thức, tiểu thuyết gia sung sức và quan trọng nhất của thế hệ mình, bên cạnh Amos Oz (1939-2018) và A. B. Yehoshua (1936-2022), những người từng là bạn ông. 

Tác phẩm của nhà hoạt động kiên định vì hòa bình này, được dịch ra nhiều thứ tiếng và vinh danh bằng những giải thưởng danh giá trên toàn thế giới, song hành với sự dấn thân chính trị lâu dài, đã khiến ông trở thành tên tuổi lớn của văn học Do Thái đương đại và một trong những tiếng nói lương tri được lắng nghe và tìm đón nhiều nhất.

Khi tờ Le Monde phỏng vấn từ xa, ông đang ở tâm cơn bão dấy lên bởi những lời phát biểu trong cuộc phỏng vấn mới đây với nhật báo Ý La Repubblica (ngày 3-8-2025). Không né tránh đề tài chiến tranh ở Gaza, ông phê phán mạnh mẽ lập trường của Israel. 

Ông thừa nhận mình nay đã mệt mỏi với việc trả lời những câu hỏi chính trị và hạnh phúc hơn khi được nói về công việc văn chương và mối quan hệ cá nhân với việc viết.

Văn chương - Ảnh 1.

Nhà văn David Grossman phát biểu trong một cuộc biểu tình phản đối Thủ tướng Benjamin Netanyahu và chính phủ đương nhiệm bên ngoài căn cứ quân sự Kirya ở Tel Aviv, ngày 22-6-2024. Ảnh: TOMER NEUBERG/FLASH90/AFP

Ông thường nói rằng nhà văn trước hết phải biết viết một "câu chuyện hay". Theo ông, một câu chuyện hay là gì?

Một câu chuyện hay là câu chuyện tự tạo ra thế giới của riêng nó, một thế giới tự trị, nhiều mặt, dồi dào và tinh tế. Những gì toát ra từ đó được hình thành từ chính nó và bởi chính nó. Thế giới này có chỗ đứng trong thực tại và khi vắng bóng, tôi cảm thấy một nỗi thiếu hụt hiện sinh đau đớn. Khi tôi viết nó ra, thế giới ấy, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong tinh thần; tôi cảm thấy mình đang ở đúng nơi mình cần phải ở, trong không gian của riêng tôi.

Tôi hẳn phải cảm thấy cuốn sách mình đang viết là điều không thể thiếu. Tôi viết không phải vì muốn trở thành nhà văn hay bỗng dưng có ý thích ghi một câu chuyện lên trang giấy, mà vì nếu không viết, tôi sẽ phát điên. Viết những cuốn sách như thế chính là cách tôi hiện hữu trong thế giới.

Không nên để người ta thấy sự gượng gạo hay cố sức, mà phải để câu chuyện tự tiến lên một cách tự nhiên. Khi viết, tôi nhận ra mình tìm kiếm một điều, còn câu chuyện lại hướng đến một điều khác. Kinh nghiệm làm nhà văn thúc đẩy tôi phải lắng nghe câu chuyện, vì chính nó sẽ đưa tôi đến những nơi mình không dám bước tới. Câu chuyện thông minh hơn tôi, dũng cảm hơn và cũng thất thường hơn… Tôi phải mất nhiều thời gian mới hiểu và biết mình phải làm gì: gác ý chí sang một bên và để câu chuyện tự đi theo lối của nó. Không phải theo kiểu huyền bí - tôi vốn không phải người theo thần bí - mà theo cách thực tế, để cho câu chuyện tự kể. Và nếu làm được như vậy, cuốn sách sẽ trở thành một tác phẩm hay.

"Viết là cách tôi hiện hữu"

Khi bắt đầu viết, ông có nghĩ đến một kiến trúc tổng thể cho toàn bộ tác phẩm của mình không?

Không, thật sự là không, ngược lại là khác. Với mỗi cuốn sách, tôi đều tin chắc rằng đây sẽ là cuốn cuối cùng. Nhưng khi bắt đầu viết, tôi lại nhận ra nó chính là nấc thang dẫn đến một tác phẩm khác, sâu hơn, lôi cuốn hơn với tôi. Không cuốn nào trong số các tác phẩm có thể tồn tại trước cuốn đi trước, và chỉ sau khi hoàn thành, sau khi nhờ đó tôi tạo được một chỗ đứng vững chắc trong thế giới - nơi tôi có thể tìm về như một cuộc hành hương - tôi mới biết rằng đó thật sự là cuốn mình muốn viết.

Nhân vật chính trong một cuốn tiểu thuyết gần đây của ông, Con ngựa bước vào quán bar (A Horse Walks Into a Bar, Trần Quốc Tân dịch, Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2018), Dovalé là nghệ sĩ hài độc thoại, một chú hề buồn đang giã từ sân khấu. Có thể nào nhân vật này có liên hệ với chính ông, khi ông thể hiện sự mệt mỏi với việc viết và ý muốn khép lại sự nghiệp văn chương không?

Không. Trước hết, đó không phải cuốn cuối cùng của tôi, và tôi chắc chắn không hề viết với ý định như vậy. Hãy coi như thế này nhé: tôi sẽ viết thêm ba hoặc bốn cuốn nữa rồi mới dừng! Hiện tại, tôi đang viết một truyện ngắn, thể loại mà tôi rất yêu thích. Khi hoàn thành, tôi muốn viết một tiểu thuyết về tuổi thiếu niên. Về đề tài này, tôi đã có sẵn hai tác phẩm rồi: Đứa trẻ zigzag (The Zigzag Kid - 1994) và Ai đó chạy cùng ta (Someone to Run With, Huyền Vũ dịch, Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2022).

Tôi rất thích lứa tuổi này, một lứa tuổi phi thường, dĩ nhiên vô cùng khó sống, nhưng tuyệt vời cho ai muốn viết về nó, một tuổi đầy "u uất hiện sinh", đầy đam mê, căng thẳng. Một tuổi giống như thể người ta bước vào một khoảnh khắc đặc biệt, với một cơ thể đặc biệt, một diện mạo đặc biệt, những suy nghĩ đặc biệt, và khi bước ra sau vài năm, ta đã trở thành một con người hoàn toàn khác.

Văn chương - Ảnh 2.
Văn chương - Ảnh 3.

Quan hệ giữa cơ thể và việc viết, với ông là như thế nào?

Khi viết, tôi luôn lắng nghe cơ thể mình. Mọi động tác mà Dovalé thể hiện trong Con ngựa bước vào quán bar, tôi đều đã thử ngoài đời. Khi anh ta lộn ngược để đi trồng cây chuối, tôi cũng làm theo. 

Tôi muốn những mô tả đi qua thân thể mình chứ không chỉ qua ngôn từ. Tôi từng viết một cuốn sách mang tên Hiểu bằng thân thể, về giáo viên yoga đầu tiên của tôi, Hannah Bekhor. Cuốn sách nói về tầm quan trọng của việc hành động bằng cơ thể thay vì chỉ dựa vào trí óc.

Để viết Người đàn bà trốn khỏi tin dữ (A Woman Escaping News, 2008), tôi đã đi theo lộ trình đi bộ mà Ora thực hiện cùng người tình cũ, Avram, ở miền bắc Israel, cũng như một nửa số đường đi bộ đường dài ở Israel. Trải nghiệm này, cách đây khoảng hai mươi năm, là một điều khác lạ đối với tôi. 

Cho đến nay, tôi vẫn không hiểu bằng cách nào mình có thể tự định hướng trên những con đường tắt giữa các thị trấn, làng mạc và kibbutz (cộng đồng nông nghiệp tập thể), những nơi trước đó tôi chưa từng đặt chân.

Chính sự mất phương hướng và nỗi lo sợ ấy đã đem lại cho câu chuyện sức mạnh và hiệu lực của nó. Giữa thiên nhiên, bất chợt tôi gặp chó, rắn, chim, lợn rừng. Khi được nhìn gần gũi hệ thực vật Israel, "biết" Israel như một người đàn ông "biết" một người phụ nữ, tôi có cảm giác mình thật sự biết đất nước này. 

Niềm vui thể xác ấy, khi bất ngờ nắm bắt được đất nước, logic của những lối mòn, lý do vì sao một loài hoa mọc dưới gốc cây này mà không mọc ở chỗ khác, đã khiến cuốn sách trở nên vô cùng quan trọng với tôi, nhất là vì trong lúc viết, chúng tôi mất con trai Uri ở Libanon (vào năm 2006).

Văn chương là lối đi vào tim lửa

Một số người chỉ muốn bàn với ông về văn chương, chứ không muốn đụng đến chính trị. Nhưng sự tách biệt này chẳng phải hơi gượng ép sao, khi tác phẩm của ông thường phơi bày ảo tưởng thu mình trong cái kén gia đình, riêng tư hay cá nhân để giả vờ thoát khỏi cơn cuồng nộ của chính sự Israel?

Nếu đọc sách của tôi, sẽ thấy tôi hoàn toàn không viết để trốn tránh hiện thực. Thực ra, điều ngược lại mới đúng. Tôi luôn tìm cho mình một lối đi thẳng vào trung tâm ngọn lửa. Tôi bị cuốn hút bởi việc viết về vết thương. Và khi cầm bút, tôi cố gắng ở đúng nơi mình đang hiện diện, chứ không tìm cách thoát ra khỏi đó.

Theo tôi, "thoát ly" đôi khi lại nằm ở báo chí. Chủ yếu là do ngôn ngữ mà nhà báo dùng: cố ý nông cạn, dán ghép, đầy rẫy những sáo ngữ. Mà sáo ngữ là gì? Là công cụ phục vụ cho nhu cầu tức thời. 

Trong thời đại trí tuệ nhân tạo và sự viết buông thả trên Internet, ngày càng nhiều người đi theo lối dễ dãi này. Nhiều lần đọc phóng sự trên báo, tôi nhận ra người viết không hề nỗ lực trong cách kể. Cảm giác đó rất rõ ràng.

Mối liên hệ nào gắn kết tác phẩm và phong cách của ông với truyền thống Do Thái?

Trong suốt 34 năm qua, mỗi tuần chúng tôi lại gặp nhau một lần, khoảng hai đến hai tiếng rưỡi, để cùng đọc và bàn luận về Tanakh (kinh thánh Do Thái). Với tôi, đó luôn là những giờ phút đẹp nhất trong tuần. 

Tôi may mắn được ngồi cùng những người uyên bác, khôn ngoan, như nhà thơ Rivka Miriam - một trong những tiếng nói lớn nhất của thơ ca tiếng Hebrew, hay giáo sư nghiên cứu Do Thái Yehuda Ben-Dor, một học giả thật sự tinh tế. Hiện nay, chúng tôi đang ở đoạn đầu quyển thứ nhất của Samuel, khi Hannah (trong tiếng Hebrew nghĩa là "ân sủng"), mẹ của Samuel, đến gặp thầy tế cả Eli và khóc vì bà không có con, trong khi vị thầy cả nghĩ rằng bà say rượu. Sau đó Samuel ra đời, và mỗi năm Hannah lại may cho con một "tấm áo nhỏ" để mang đến trong cuộc hành hương tới đền thờ, nơi Samuel phục vụ. Biết bao dịu dàng trong chữ "nhỏ" (qatone) ấy! Trong nhóm có hai người rất am hiểu các bình giải truyền thống, nhưng chúng tôi vẫn luôn cố gắng tìm ra một cách hiểu mới mẻ.

Tôi muốn việc viết của mình là một cuộc đối thoại, không chỉ với độc giả mà còn với chính tiếng Hebrew, thứ ngôn ngữ đã sống sót một cách kỳ diệu qua hàng nghìn năm, điều rất ít ngôn ngữ khác trên đời làm được.

Ông nhìn thấy sự thay đổi của các nhân vật từ khi mới bắt đầu viết như thế nào?

Tôi khó mà tự nhìn mình từ bên ngoài. Tôi nghĩ rằng bây giờ tôi viết tốt hơn khi xây dựng những nhân vật không phải là chính tôi. Những hình tượng phụ nữ, chẳng hạn, như Ora trong Người đàn bà trốn khỏi tin dữ. Giờ đây, tôi cởi mở hơn với "tính nữ" trong tính cách mình, như người ta thường nói. 

Tôi đã mất bốn năm để viết cuốn sách này mà vẫn không đạt được kết quả mong muốn. Tôi không thể nào trở thành Ora thật sự. Trong tuyệt vọng, tôi đã viết cho cô ấy một bức thư: "Chị Ora thân mến, tại sao chị lại như thế, tại sao chị lại hành hạ tôi như vậy, có phải tôi chưa dốc hết lòng, có phải tôi chưa đủ cố gắng?".

Đột nhiên, sau một tuần, tôi nhận ra vấn đề của mình: không phải tôi là người cần được hiểu hay bảo vệ, mà có một điều gì đó, một ai đó khác ẩn sâu bên trong muốn lớn lên thành một nhân vật như Ora. Tôi phải để cho phần ấy nắm lấy câu chuyện, chứ không phải tôi gánh vác. Và rồi câu chuyện bắt đầu tuôn chảy.

Văn chương - Ảnh 4.

Nhà thơ Israel Avot Yeshurun (1904-1992) từng viết rằng từ nay thơ ca sẽ mang lấy lời cầu nguyện. Ông có tin rằng trong thế giới hiện đại, vai trò của một "nhà tiên tri" có thể được đảm nhận bởi nhà văn không? Và điều đó chẳng phải đặc biệt đúng với ông sao, khi mà Ngọn gió vàng (1987), phóng sự của ông về người Palestine ở Bờ Tây, đã dự cảm cuộc Intifada thứ nhất (1987-1993)?

Người ta từng muốn gắn cho tôi cái nhãn "nhà tiên tri". Nhưng tôi thật sự không phải vậy. Chức vị ấy vẫn để trống cho ai muốn nhận lấy… Tuy nhiên, vì ông nhắc đến Avot Yeshurun, đúng là có một mối liên hệ giữa nhà tiên tri và nhà thơ. 

Điểm chung là cả hai không chỉ mở ra với thực tại, mà còn phải luôn tỉnh thức với kinh nghiệm. Chỉ ai đạt được sự tự do nội tâm ấy mới có thể làm thơ; còn nếu cứ khép kín trong chính mình thì không thể. Người viết phải có khả năng đón nhận và hấp thụ điều được ban cho như một miếng bọt biển.

Vì thế, đúng là bất cứ ai làm được điều đó đều có thể được coi là "tiên tri", không phải theo nghĩa dự báo tương lai, mà bởi vì họ hút lấy tất cả mảnh vụn của thực tại để rồi sắp xếp lại theo một cách mới. 

Nghe có vẻ trừu tượng, nhưng ai từng trải qua sẽ hiểu cái cảm giác lạ thường ấy: để cho câu chuyện dẫn dắt mình. Câu chuyện tự kể lấy chính nó.

Với tôi, viết là cách tôi hiện hữu trong thế giới này. Viết mang lại cho tôi niềm vui và sự an ủi.

Ngòi bút giữa vết thương

Ông nghĩ sao về những xu hướng hiện tại của văn học Israel, dường như đang rời xa chính trị để ưu tiên cho đời sống riêng tư?

Mọi điều tôi có thể nói bây giờ sẽ mất ngay giá trị thời sự, bởi chúng ta đang ở trong một giai đoạn mà mọi quân bài đều được xáo lại và điều đó cũng làm con người chao đảo. Những gì chúng tôi đã trải qua vào ngày 7 tháng mười (tức cuộc tấn công của Hamas vào Israel năm 2023) sẽ làm thay đổi cuộc sống của chúng tôi, và còn theo nghĩa là nó sẽ lấy đi rất nhiều thời gian để thoát ra khỏi chấn thương do cú đánh dữ dội ấy gây ra. Mang trong mình một vết thương có lúc giúp ta hiểu ra điều gì đó, nhưng cũng có lúc lại ngăn cản lời giải thích.

Tôi nghĩ rằng một trong những con đường dẫn đến sự chữa lành, trước hết, là đi qua trạng thái tê liệt. Tôi có thể nói thay cho nhiều nhà văn Israel mà tôi quen biết; tất cả họ đều nói: "Chúng tôi không tài nào viết được!". 

Ngôn từ trở nên bất lực trước sự tàn bạo. Chúng tôi không tìm được lời nào để diễn tả cảm xúc của mình, và sự cạn kiệt ngôn từ chính là một dấu hiệu của trầm cảm: con người bị nhốt chặt trong những kinh hoàng xung quanh mà không có lối thoát, không cách nào phá vỡ bong bóng ấy để hít thở khí trời. 

Một mặt, người ta cần được ở cạnh những người từng trải qua điều tương tự, nhưng mặt khác lại muốn ở một mình, bởi sự có mặt của người khác như khoét sâu thêm vào vết thương. Thời cuộc thật khủng khiếp, và không chỉ riêng ở Israel.

Ông sẽ mô tả "phong cách muộn" của mình như thế nào, nếu có thể gọi như vậy đối với lối viết hiện nay của ông?

Tôi tự nhắc mình đừng nghĩ đến những chuyện như thế. Tôi luôn cố gắng tìm cách đổi mới. Bởi vì, như tôi đã nói, viết là để tạo ra cái chưa từng tồn tại. Nhiều khi đọc sách, không chỉ của các nhà văn Israel, tôi thấy họ thiếu khát vọng thử nghiệm, gần như tuyệt vọng rằng sẽ chẳng bao giờ nghĩ ra được điều gì mới. Tôi thường muốn nói với họ: "Hãy thử đi, ít nhất cũng phải thử!".

Đã bao lần tôi đọc một cuốn sách mà thấy rõ nó thất bại, nhưng tôi vẫn cảm nhận được tham vọng của người viết. Tôi rất trân trọng điều đó. Đúng, lần ấy anh ta chưa mang được điều mới đến cho thế giới, nhưng rồi lần sau có thể sẽ làm được. 

Giống như Xem dưới: tình yêu (See Under: Love - 1986), cuốn sách mang tính thử nghiệm nhiều nhất của tôi, hay Rơi ra ngoài thời gian (Falling Out of Time - 2011), viết sau khi con trai tôi Uri qua đời, được dệt từ nhiều thể loại khác nhau: thơ, kịch, bách khoa, tiểu thuyết… Có vô số cách để tự đặt mình vào giữa một câu chuyện.

Văn chương - Ảnh 5.

Người đưa tang đau xót trong lễ mai táng những người Palestine thiệt mạng dưới làn đạn Israel khi đi tìm viện trợ ở Gaza, ảnh chụp ngày 14-8-2025. Ảnh: EBRAHIM HAJJAJ/REUTERS

Gần đây, trong một cuộc phỏng vấn với La Repubblica, ông đã gọi chính sách Israel đang tiến hành ở Dải Gaza là "diệt chủng". Ông nghĩ gì về những phản ứng sau phát biểu này?

Có vô vàn phản ứng từ khắp nơi trên thế giới. Một nghị sĩ cánh tả đã cố đọc lại cuộc phỏng vấn của tôi ngay tại diễn đàn Knesset (Quốc hội Israel) và sau đó bị đình chỉ tham gia nghị viện. Những phản ứng ấy nói lên rất nhiều điều về tình hình chúng tôi đang trải qua: bối cảnh mà bạo lực của phe cánh hữu lấn át, nơi người ta nghĩ rằng có thể khiến tiếng nói bất đồng im lặng, rằng mình có thể cho phép bản thân làm bất cứ điều gì.

Đây không chỉ là chuyện tự vệ, vốn hoàn toàn chính đáng. Ngày 7 tháng mười, kẻ thù đã tấn công và chúng tôi hoàn toàn có quyền cứu lấy mạng mình; điều ấy như bản năng, như sinh học: kẻ nào đánh anh, anh đánh trả. Nhưng cái bắt đầu từ đó rốt cuộc đã trở thành sự trả thù với cường độ ngày càng lớn, và trả thù không thể nào trở thành một chính sách được.

Chúng ta đang sống trong một thời khắc đầy nguy hiểm, khi mà giờ đây mọi chuyện đã đi quá xa khỏi ranh giới của sự trả thù. Và khi nhìn những phản ứng, tôi cảm thấy rất đau đớn. Sự kết hợp giữa hai từ "Israel" và "diệt chủng" đã khiến tôi day dứt ngay từ đầu. 

Trong La Repubblica, đó đúng là lời tôi nói, nhưng trong tập tiểu luận gần đây nhất của mình (Con tim biết nghĩ: Suy tưởng về một hỗn loạn được báo trước), tôi đã giải thích rằng tất cả những điều này là một phần của tiến trình mà Israel đang trải qua. 

Chỉ khi biết thừa nhận sai lầm, xây dựng một liên minh khu vực và cùng tồn tại với một Nhà nước Palestine bên cạnh chúng tôi, chúng ta mới thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăm tối, nơi Israel có thể bị gắn với những từ ngữ khủng khiếp như vậy.

Có bao giờ một ngày nào đó ông sẽ quyết định ngừng viết không?

Với tôi, viết không phải là một nghề, mà là cách tôi hiện hữu trong thế giới này. Viết mang lại cho tôi niềm vui và sự an ủi. Chừng nào còn cảm thấy vui khi viết, tôi sẽ còn tiếp tục. Khi nào việc viết bắt đầu khiến tôi đau khổ một cách vô nghĩa - bởi có những nỗi khổ vốn có lý do, có mục đích - thì chỉ lúc đó tôi mới ngừng viết.

Thanh Hà (dịch)

• 1954 David Grossman sinh tại Jerusalem. Học nghệ thuật kịch và triết học tại Hebrew University.

• 1970-1984 Ông làm việc tại đài phát thanh quốc gia Israel Kol Israel, đáng chú ý là với tư cách biên kịch cho nhiều kịch bản phát thanh.

• 1983 Ông xuất bản tiểu thuyết đầu tay Nụ cười của con chiên.

• 1986 Xem dưới: tình yêu, cuốn sách về Shoah, được viết dưới cảm hứng từ nhà văn Do Thái gốc Ba Lan Bruno Schulz (1892-1942), người cũng xuất hiện như một nhân vật trong truyện.

• 1987 Trong Ngọn gió vàng, phóng sự ở Bờ Tây, ông đã tiên cảm về cuộc Intifada thứ nhất, bùng nổ ngay trong năm đó.

• 1991 Sách văn phạm thân mật, câu chuyện về một đứa trẻ từ chối lớn lên và sáng tạo một ngôn ngữ để tự bảo vệ khỏi thế giới người lớn.

• 2006 Con trai út Uri, một trong ba người con của ông, tử trận tại Li băng; Người đàn bà trốn khỏi tin dữ (đoạt Giải Médicis văn học nước ngoài ở Pháp) được viết trong thảm kịch này.

• 2010 Ông nhận giải hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức

• 2014 Con ngựa bước vào quán bar, đoạt International Booker Prize cùng năm.


Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận