Địa chính trị và ứng dụng nhắn tin

DUY VĂN 27/09/2025 18:32 GMT+7

TTCT - Các ứng dụng công nghệ quốc gia đang trở thành không chỉ là lựa chọn thay thế cho các dịch vụ phương Tây - mà sẽ là công cụ của chủ quyền kỹ thuật số.

Địa chính trị và ứng dụng nhắn tin - Ảnh 1.

Ảnh: technologyreview.com

Hơn hai tuần đã trôi qua từ sau các cuộc biểu tình của thế hệ Z ở Nepal khiến thủ tướng Sharma Oli phải từ chức. 

Nguyên nhân sâu xa nằm ở tình hình kinh tế yếu kém, khi giới trẻ không có cơ hội việc làm (tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên tuổi từ 18-25 lên tới 20,8%, theo Ngân hàng Thế giới), bất bình đẳng xã hội và tham nhũng.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận giọt nước tràn ly chính là việc chính phủ chặn truy cập vào 26 nền tảng mạng xã hội không đăng ký với nhà nước theo hạn quy định. 

Câu chuyện Nepal một lần nữa khẳng định "sức mạnh mềm" nhưng lại nguy hiểm không kém sức mạnh cứng của những công cụ ảo này. Đó cũng là lý do khiến một số các chính phủ đang từ bỏ dần các dịch vụ số nước ngoài, và coi các ứng dụng nhắn tin là vấn đề an ninh quốc gia.

Ứng dụng nhắn tin thành chiến trường

Cho đến gần đây, các ứng dụng nhắn tin dường như là một phương tiện trung lập và phổ quát, không phân biệt biên giới, khu vực pháp lý hay chính trị. 

WhatsApp, Telegram, Facebook Messenger (thuộc tập đoàn Meta, Mỹ) và Signal (thuộc Signal Foundation, tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Mỹ, sáng lập năm 2018 bởi Moxie Marlinspike và người đồng sáng lập WhatsApp, Brian Acton) đã thâm nhập vào hầu hết mọi quốc gia, tạo nên một không gian số không cần quốc kỳ hay thị thực.

Nhưng cũng theo thời gian, một điều trở nên rõ ràng: trong một thế giới mà thông tin bị vũ khí hóa, những công cụ như vậy không thể đứng bên ngoài quyền lực và chính trị. Những vụ bê bối, rò rỉ, giám sát, trừng phạt và tranh chấp địa chính trị đã biến các ứng dụng nhắn tin thành chiến trường giữa các quốc gia, tập đoàn và người dùng.

Những cảnh báo đầu tiên về việc không có những ứng dụng nhắn tin nào là độc lập đã xuất hiện từ năm 2013, sau những tiết lộ của Edward Snowden. Khi đó, người ta biết được các nền tảng số lớn đang hợp tác với các cơ quan tình báo Hoa Kỳ và dữ liệu cá nhân của hàng triệu người có thể truy cập được thông qua các chương trình giám sát toàn cầu.

Năm 2021, WhatsApp công bố bản cập nhật chính sách quyền riêng tư, cho phép chuyển dữ liệu người dùng sang Meta, gây ra làn sóng người dùng chuyển sang Telegram và Signal. 

Chỉ riêng trong tuần đầu tiên sau thông báo của WhatsApp, Telegram đã có thêm 25 triệu người dùng mới. Signal thì vươn lên dẫn đầu danh sách tải xuống trên Apple Store và Google Play ở hàng chục quốc gia, với hơn 40 triệu lượt trong vòng một tuần.

Các biến cố như vậy dẫn đến phản ứng dây chuyền: các quốc gia bắt đầu tích cực phát triển và quảng bá ứng dụng nhắn tin quốc gia dưới sự kiểm soát hoàn toàn của họ, lưu trữ dữ liệu trong biên giới nước mình.

Địa chính trị và ứng dụng nhắn tin - Ảnh 2.

Ảnh: Reuters

Trung Quốc là quốc gia kiên định nhất trong quá trình này. Những năm 2010, chính quyền Bắc Kinh đã chặn WhatsApp, Google, Facebook và các dịch vụ phương Tây khác, đồng thời tự xây dựng cấu trúc kỹ thuật số độc lập riêng. 

Nền tảng chính hiện giờ ở Trung Quốc là WeChat, siêu ứng dụng phổ quát kết hợp các chức năng của ứng dụng nhắn tin, mạng xã hội, nền tảng thanh toán, dịch vụ nhà nước, nguồn tin tức và thậm chí là hệ thống pháp lý. 

Tính đến năm 2025, lượng người dùng WeChat đã vượt quá 1,3 tỉ người. Nó không chỉ là WhatsApp phiên bản Trung Quốc, mà còn là biểu tượng của môi trường kỹ thuật số do nhà nước kiểm soát toàn diện.

Ấn Độ cũng đang đi theo con đường tương tự. Sau khi căng thẳng với Trung Quốc leo thang vào năm 2020 và sau việc chặn TikTok cùng các ứng dụng khác của Trung Quốc, chính phủ New Delhi đã phát triển các ứng dụng nhắn tin riêng của họ - Sandes (một sáng kiến của chính phủ), và các lựa chọn tư nhân thay thế như Bharat Chat và Namaste Bharat. 

Tất cả đều được tiếp thị là lựa chọn thay thế an toàn hơn, bản địa hóa và yêu nước hơn WhatsApp. Tuy nhiên trên thực tế, thị phần của WhatsApp tại Ấn Độ vẫn áp đảo: theo Báo cáo Dân số thế giới (WPS) năm 2025, hơn 858 triệu người sử dụng ứng dụng nhắn tin này và chưa có sáng kiến quốc gia nào của Ấn Độ đạt được tầm mức tương đương.

Sau khi Mỹ áp thuế lên hàng hóa Ấn Độ, xu hướng bản địa hóa công nghệ càng tăng. Rahm Shastri, CEO của DriveU, công ty Ấn Độ chuyên về sản phẩm kỹ thuật số, tuyên bố: "Ấn Độ cần Twitter, Google, YouTube, WhatsApp của riêng mình - giống như Trung Quốc".

Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã phát triển các ứng dụng nhắn tin riêng - LINE và KakaoTalk. Các sản phẩm này đã tiếp cận khoảng 90% dân số ở mỗi nước. Các ứng dụng tương tự cũng tồn tại ở Trung Đông - ví dụ như Botim là ứng dụng nhắn tin tại UAE, có hỗ trợ video call và thanh toán.

Ở Nga, các nỗ lực thay thế cũng nhiều, nhưng đến nay chỉ có Telegram, do Pavel Durov phát triển, là đủ sức trở thành một kênh liên lạc được sử dụng rộng rãi, dù nó được đăng ký bên ngoài nước Nga và chính thức không thuộc thẩm quyền của Nga. 

Các cơ quan tình báo Nga đã nhiều lần cảnh báo các cuộc tấn công khủng bố lớn trong những năm gần đây được lên kế hoạch bằng các ứng dụng nước ngoài. 

Gần đây nhất, khi xung đột Nga - Ukraine nổ ra vào tháng 2-2022, truyền thông Nga không ngừng nhắc nhở về tình trạng tin nhắn WhatsApp bị phía Ukraine truy cập nhờ tình báo Mỹ hỗ trợ. Các thông tin bị lộ bao gồm định vị, tin nhắn thoại và hình ảnh.

Gần đây nhất, năm 2025, công ty mạng xã hội Nga VK đã ra mắt ứng dụng tin nhắn tức thời Max với tham vọng trở thành không chỉ là một ứng dụng nhắn tin quốc gia, mà đồng thời là ứng dụng tích hợp dịch vụ công trực tuyến, hộ chiếu số, chữ ký điện tử, thanh toán... 

Khác với Telegram và WhatsApp, Max có thể tích hợp với các hệ thống kỹ thuật số nội bộ của Nga, bao gồm cổng thông tin thống nhất nhà nước Nga về dịch vụ công Gosuslugi, vốn chuyên quản lý tài liệu điện tử và các dịch vụ doanh nghiệp.

Tuy những giải pháp ở từng quốc gia nêu trên vẫn có hạn chế so với những tập đoàn đa quốc gia đã đi tiên phong và định hình thị trường thế giới, ý tưởng về chủ quyền số đã trở thành một phần của các diễn ngôn chính trị.

Địa chính trị và ứng dụng nhắn tin - Ảnh 3.

Trung Quốc có hệ thống các ứng dụng nội địa riêng. Ảnh: India TV News

Phi toàn cầu hóa kỹ thuật số

Nghiên cứu công bố trên ấn bản mạng Readovka.ru (Nga) ngày 5-9 cho rằng trong 10 năm qua, thế giới đã ngày càng rời xa ý tưởng về một không gian kỹ thuật số và tài chính thống nhất. 

Sự trở lại của ngành sản xuất từ Trung Quốc, chính sách "Nước Mỹ trên hết" của Donald Trump, cuộc chiến trừng phạt của phương Tây với Nga, các hệ thống thanh toán song song như SPFS (Nga) và CIPS (Trung Quốc), đồng nhân dân tệ phổ biến hơn và cuộc thảo luận về một đồng tiền chung BRICS… đều thuộc xu hướng này. Các giao thức giao tiếp và thông tin cũng không thể nằm ngoài.

Đó là lý do tại sao Trung Quốc đồng thời thúc đẩy đồng nhân dân tệ kỹ thuật số và WeChat. Nga có SPFS và Max. Ấn Độ có UPI (giải pháp thay thế toàn cầu cho SWIFT) và Sandes. Các quá trình tương tự cũng diễn ra ở các nước vùng Vịnh, Đông Nam Á và cả châu Phi, dù lặng lẽ hơn. 

Trong hệ thống này, ứng dụng nhắn tin không chỉ là sản phẩm tiêu dùng nữa, mà còn là một nền tảng của quản trị nhà nước. Cấu trúc của chúng sẽ ngày càng giống cấu trúc của ngân hàng, với các quy định, cổng kết nối, giao thức truy cập và thẩm quyền rõ ràng. 

Đây chính là bản chất của phi toàn cầu hóa kỹ thuật số - không chỉ đơn thuần từ chối những gì thuộc về người khác, mà còn xây dựng một nền tảng của riêng mình.

Trong thế giới hiện đại, Internet cũng là lãnh thổ quốc gia, chịu sự chi phối của luật pháp quốc gia đó. Từ góc nhìn này, Sergey Lipov, chuyên gia tại Trung tâm Công nghệ thông tin Nga, chỉ ra ba vấn đề: 

(1) Độc lập kỹ thuật số là khả năng một quốc gia thiết lập và thực thi các quy tắc và quy định riêng liên quan đến nội dung, việc sử dụng Internet và hành vi trực tuyến. 

(2) Việc thiếu chủ quyền kỹ thuật số buộc nhà nước phải hoàn toàn dựa vào các nền tảng nước ngoài để kiểm duyệt nội dung và bảo vệ người dùng. Dễ hiểu là phản hồi của một nền tảng nước ngoài với yêu cầu như vậy thậm chí có thể không được xem xét. 

(3) Con đường hướng tới chủ quyền số mang lại lợi ích kinh tế lâu dài khi một quốc gia phát triển sản phẩm của riêng mình trong một thời gian dài và đầu tư vào năng lực vào đó.■

Rajesh Dangi, giám đốc kỹ thuật số của Trung tâm Dữ liệu và công nghệ đám mây NxtGen (Ấn Độ), nêu ra ba trụ cột của chủ quyền số:

(1) Chủ quyền dữ liệu, được xác định bởi các năng lực thu thập dữ liệu, lưu trữ và lưu trú, truy cập và quyền riêng tư, sử dụng và quyền sở hữu;

(2) Chủ quyền công nghệ, bao gồm một số lĩnh vực chính như độc lập mạng viễn thông, lá chắn an ninh mạng…;

(3) Chủ quyền hoạt động, tức khả năng thực hiện các chức năng thiết yếu mà không chịu ảnh hưởng quá mức từ bên ngoài.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận