Không phải lượng, mà là chất 

PHẠM THỊ LY 12/10/2018 01:10 GMT+7

TTCT - Một trong hai nội dung chính của phiên giải trình ngày 24-9 do Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội tổ chức tại Hà Nội là chủ đề thực hiện chính sách, pháp luật trong tuyển dụng, sử dụng đội ngũ giáo viên với sự tham dự trả lời trực tiếp của lãnh đạo Bộ GD-ĐT và Bộ Nội vụ.

Lĩnh vực giáo dục vẫn cần sự tinh giản về số lượng để nâng cao chất lượng. Ảnh: McKinsey
Lĩnh vực giáo dục vẫn cần sự tinh giản về số lượng để nâng cao chất lượng. Ảnh: McKinsey

 

Vấn đề nổi bật được nêu ra là theo Bộ GD-ĐT, trường lớp tăng, học sinh tăng mạnh theo từng năm, trong khi giáo viên (GV) thiếu nghiêm trọng nhưng lại phải cắt giảm biên chế 10% mỗi năm theo chủ trương chung Bộ Nội vụ đã ban hành.

Những số liệu thực tế

Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT về tình trạng thừa, thiếu GV (tính đến ngày 15-8-2018) tại phiên họp ngày 24-9, số GV còn thiếu sau khi đã được giao thêm biên chế tuyển dụng là gần 76.000 người. Do tình trạng thiếu GV, một số nơi đã hợp đồng GV ngoài chỉ tiêu biên chế được giao không đúng với quy định hiện hành.

Thế nhưng trước đó, ngày 21-1-2018, Bộ GD-ĐT đã cho biết theo thống kê của bộ, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, số GV thừa của các cấp học là hơn 40.000 người. Trong đó bậc THCS thừa nhiều nhất (hiện có gần 311.000 GV), bậc tiểu học đang có khoảng 397.000 GV. Triển khai chương trình mới ở lớp 1 năm học 2019-2020 sẽ thừa khoảng 4.700 GV và thừa thêm gần 5.000 GV vào năm học 2020-2021.

Đến năm học 2023-2024, khi chương trình mới triển khai, tổng số GV dôi dư lên đến hơn 21.000 người. Tuy dôi dư GV về tổng thể, nhưng xét theo từng môn ở từng cấp học lại có nhiều môn sẽ thiếu GV với số lượng khá lớn. Từ năm học 2021-2022 đến năm học 2023-2024, bậc trung học lại thiếu GV. Tổng số GV thiếu là trên 5.000 người.

Như thế nghĩa là đang có tình trạng thừa thiếu cục bộ, nơi thì thừa, nơi thì thiếu; cấp học này thừa, cấp học kia thiếu do sự thiếu phối hợp giữa ba cơ quan liên quan là Bộ GD-ĐT, Bộ Nội vụ và UBND địa phương. Về tổng thể, cần đánh giá lại việc thừa thiếu này dựa trên những con số thống kê của Bộ GD-ĐT và của Tổng cục Thống kê.

Như biểu đồ đi kèm bài này cho thấy số lượng học sinh tăng rất ít qua các năm và gần như không thay đổi trong ba năm gần đây. Tỉ lệ số học sinh/GV tuy có tăng nhưng chậm và không đáng kể. Những con số trên đây cũng nhất quán với tư liệu của Tổng cục Thống kê (chỉ tính học sinh trong các trường công lập và GV là những người trực tiếp đứng lớp, không tính cán bộ quản lý hay nhân viên phục vụ).

 

 

Thông tư 16/2017/TT-BGD-ĐT quy định rõ định mức GV cho mỗi lớp ở từng cấp học, cụ thể là 1,2 GV ở tiểu học, 1,9 GV ở THCS và 2,25 ở THPT. Còn thông tư 12/2011/TT-BGD-ĐT quy định sĩ số học sinh tối đa của mỗi lớp ở từng cấp, cụ thể là 35 học sinh ở tiểu học, 45 học sinh ở THCS và THPT. Từ hai thông tư này có thể tính ra định mức số GV dựa trên số học sinh.

Bảng dưới đây so sánh tỉ lệ học sinh/GV của năm học 2017-2018 so với mức quy định của bộ và cho thấy rõ bức tranh tổng thể hiện nay của chúng ta là không thiếu GV. Cũng năm học 2017-2018, số lượng GV ngoài biên chế không thay đổi nhiều, vào khoảng 40.000 người trong điều kiện số học sinh/GV là 18,74. Nếu cắt giảm toàn bộ GV ngoài biên chế thì tỉ lệ này là 19,69, vẫn thấp hơn so với mức quy định của Bộ GD-ĐT.

Những số liệu trên đây mâu thuẫn với việc Bộ GD-ĐT và các địa phương phản ứng với việc giảm biên chế GV. Đó là chưa nói tới dự báo thừa GV trong những năm sắp tới. Từ những số liệu này, có thể khẳng định xét về tổng thể hiện không thiếu GV, thậm chí đang thừa so với định mức quy định. Tình trạng thừa GV đã được báo động nhiều trong những năm qua, dẫn tới nhu cầu quy hoạch lại hệ thống trường sư phạm và siết chặt chỉ tiêu để tránh dư thừa dẫn đến thất nghiệp, làm không đúng nghề đào tạo, chạy việc và nhiều tiêu cực khác.

Tình trạng nơi thừa nơi thiếu có thể giải quyết tạm thời bằng cách phối hợp tốt hơn ba bên hoặc bằng cách trao quyền cho Bộ GD-ĐT là nơi trực tiếp quản lý nhu cầu về GV, nhưng không giải quyết được vấn đề cơ bản hơn: bất cập hiện nay không nằm ở số lượng GV, mà quan trọng nhất là thu nhập chính thức không đủ sống, cơ chế tuyển dụng thiếu minh bạch và quản lý chuyên môn có vấn đề.

 

 

Cán bộ, công chức, viên chức hay lao động hợp đồng?

Xét về cơ chế tuyển dụng thì kể từ khi có Luật viên chức (có hiệu lực từ ngày 1-1-2012), GV trường công đã không còn là công chức như trước, mà được coi là viên chức và từ đây việc tuyển dụng, quản lý hay sa thải họ được điều chỉnh bởi luật này. “Biên chế” nếu được hiểu là một chỗ làm suốt đời, không thể mất việc trừ khi vi phạm nghiêm trọng đã không còn áp dụng cho GV nữa. Viên chức làm việc theo hợp đồng có thời hạn hoặc không thời hạn.

Khác nhau chính giữa công chức, viên chức và lao động hợp đồng là công chức thì được tuyển dụng dựa trên yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế, bắt buộc qua thi tuyển để được bổ nhiệm, chủ yếu do ngân sách nhà nước trả lương; viên chức thì được tuyển dựa trên nhu cầu của đơn vị, tiêu chuẩn chức danh và quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập, có thể thi tuyển hoặc xét tuyển và giao kết qua hợp đồng lao động có hoặc không có thời hạn, được trả lương bằng quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập, mức lương được xác định qua chức danh nghề nghiệp; còn lao động hợp đồng thì do chủ sử dụng lao động trả lương, tất cả dựa trên thỏa thuận giữa người sử dụng và người lao động miễn không trái luật. Về bảo hiểm và hưu trí, cả ba loại công chức, viên chức và hợp đồng đều phải tuân theo Luật bảo hiểm xã hội như nhau.

Hiện nay, ở các trường công chỉ có hiệu trưởng là công chức (riêng bậc ĐH thì trưởng phó khoa/đơn vị có thể là công chức), GV được xem là viên chức, làm việc theo hợp đồng. Còn ở trường tư, đã từ lâu GV làm việc theo cơ chế lao động hợp đồng không khác gì nhân viên các doanh nghiệp.

Vấn đề đang nóng trên nghị trường Quốc hội hiện nay về việc giảm biên chế GV thực chất là vấn đề nguồn ngân sách chi trả lương cho GV trường công, vì hiện nay quỹ lương của các trường phổ thông công lập đều do ngân sách cấp. Vì là nguồn ngân sách, các tỉnh không phải muốn tuyển bao nhiêu là tuyển, mà phụ thuộc vào chỉ tiêu Bộ Nội vụ giao. Bộ Nội vụ đang yêu cầu cắt giảm 10% biên chế hưởng lương ngân sách, trong đó có GV. Các địa phương có nguồn ngân sách lớn và có khả năng tự chủ đang muốn được tự quyết định số lượng GV/viên chức, thay vì phụ thuộc vào chỉ tiêu của Bộ Nội vụ.

nguồn: Bộ GD- ĐT- Đồ họa: LT

 

Những con số trên đây cho thấy vấn đề GV hiện nay không phải là số lượng, mà là chất lượng. Vì vậy, tăng chỉ tiêu biên chế chỉ làm tăng gánh nặng ngân sách, dù là trung ương hay địa phương, mà không giúp ích gì cho việc cải thiện chất lượng. Thay đổi cách phối hợp giữa ba bên Bộ GD-ĐT, Bộ Nội vụ và UBND các tỉnh cũng chỉ giải quyết phần ngọn, là vấn đề nơi thừa nơi thiếu, nhưng không giải quyết được vấn đề sử dụng có hiệu quả lực lượng GV trong phạm vi ngân sách hiện tại.

Các trường phổ thông công lập là những đơn vị sự nghiệp công, vì thế GV được coi là viên chức và được hưởng lương từ nguồn ngân sách. Tuy nhiên, hệ thống viên chức hiện đang quy định mức lương theo ngạch bậc và phải khống chế số lượng chỉ tiêu do nguồn ngân sách có hạn, có thể không đáp ứng được những nhu cầu đa dạng của các trường và địa phương có hoàn cảnh rất khác nhau.

Thay cho việc tuyển thêm GV, cần thay đổi cơ chế quản lý nhân sự của các trường, tạo ra động lực để các trường sử dụng nguồn lực có hiệu quả hơn nhằm tăng thu nhập chính thức của GV, để họ có thể tập trung vào nhiệm vụ giáo dục.

Nghịch lý hiện nay ở các trường công là học phí rất thấp nhưng các khoản đóng góp khác bên ngoài học phí thì không thấp, nên chi phí giáo dục vẫn là một gánh nặng với nhiều gia đình. Lương chính thức của GV quá thấp khiến nhiều hiện tượng tiêu cực nảy sinh. Tăng chỉ tiêu biên chế không giúp giải quyết những nghịch lý ấy.

Phân quyền cho các địa phương, thậm chí cho các trường để họ chủ động và linh hoạt sử dụng quỹ lương (cấp khoán dựa trên số lượng học sinh), có thể sẽ giúp các trường thích ứng tốt hơn với bối cảnh cụ thể của họ. Trước đây, nhiều GV phản ứng mạnh với việc xóa bỏ chế độ viên chức vì vẫn nghĩ viên chức là một vị trí suốt đời. Thực tế không phải như vậy. Dù là viên chức hay lao động hợp đồng thì đơn vị sử dụng lao động đều có thể đơn phương quyết định chấm dứt hợp đồng và việc đó phải tuân thủ một quy trình, không phải muốn đuổi ai là đuổi. Luật lao động cũng bảo vệ người lao động mạnh mẽ không kém Luật viên chức. Chỉ có điều Luật viên chức cứng nhắc hơn do liên quan trực tiếp tới việc sử dụng ngân sách nhà nước, còn Luật lao động cho phép người sử dụng lao động linh hoạt hơn trong tuyển dụng, đánh giá và trả lương do dựa vào năng lực và nhu cầu thực tế của từng đơn vị và địa phương.

Tuy nhiên, việc khoán quỹ lương và chuyển GV sang lao động hợp đồng sẽ trao quyền nhiều hơn cho hiệu trưởng, vì thế cần có cơ chế minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình đi cùng, nhất là cần có cơ chế để phụ huynh cùng tham gia giám sát việc thực hiện chính sách của nhà trường. Phụ huynh là người có động lực mạnh mẽ nhất trong việc cải thiện chất lượng giáo dục. Họ cần được thông tin đầy đủ và cần có vai trò mạnh mẽ hơn trong việc quản lý nhà trường để hỗ trợ, cũng như để đòi hỏi trách nhiệm giải trình của nhà trường và Nhà nước. ■

GV là nhân tố cực kỳ quan trọng của chất lượng giáo dục, vì thế đào tạo, sử dụng và đãi ngộ GV cần được xem là một phần không thể thiếu của quá trình đổi mới giáo dục. Có thể nói chất lượng GV có ý nghĩa quyết định trong giáo dục phổ thông. Chương trình có hay, sách có tốt, phòng học có đẹp mà GV không tốt thì rất khó có hi vọng vào kết quả. Vì thế, vấn đề GV cần được xem xét và xử lý một cách hệ thống trên cơ sở lợi ích của người học, vì chất lượng giáo dục chính là tương lai của quốc gia.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận