Nợ công: Cuộc khủng hoảng chực chờ

D.KIM THOA 07/08/2022 16:44 GMT+7

TTCT - Danh sách các nước nợ nần ngập đầu đang ngày một dài thêm trong bối cảnh lãi suất tăng ở gần khắp thế giới vì ứng phó lạm phát. Ngân hàng Thế giới cảnh báo thế giới đang có nguy cơ rơi vào "vết xe đổ" của thập niên 1980.

Nợ công: Cuộc khủng hoảng chực chờ - Ảnh 1.

Dân Sri Lanka xếp hàng đợi đổi bình gas nấu ăn. Nợ nần đã khiến ngân khố cạn kiệt. Ảnh: The Telegraph

Các nhà lãnh đạo mới của Sri Lanka có thể được "tha thứ" nếu như họ có mong cho kinh tế Mỹ suy thoái. Bởi nếu điều đó xảy ra, lãi suất vay đồng USD hy vọng sẽ giảm, giúp quốc đảo ở Ấn Độ Dương này dễ thở hơn phần nào trong bối cảnh nợ tứ bề và khó khăn chồng chất hiện nay.

Không chỉ là Sri Lanka

Trong đánh giá hồi tháng 3-2022, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết nợ công của Sri Lanka đã tăng từ mức 94% GDP năm 2019 lên 119% năm 2021. Theo IMF, đây là mức nợ công không bền vững - mức cảnh báo cao nhất của họ với một quốc gia. Hồi tháng 5, Sri Lanka đã phải tuyên bố không còn khả năng trả nợ sau khi dùng những đồng ngoại tệ cuối cùng để mua nhu yếu phẩm.

Lún sâu trong nợ công khi dự trữ ngoại hối cạn kiệt, tình cảnh Sri Lanka thực sự là điềm báo cho những gì sắp xảy đến ở nhiều nền kinh tế mới nổi khác, theo tờ Financial Times. Quốc đảo Nam Á nhiều khả năng không phải là nước cuối cùng phải lựa chọn giữa trả nợ hay nhập khẩu hàng hóa thiết yếu trong tình cảnh phấp phỏng hiện nay.

Nhiều quốc gia có thu nhập thấp và trung bình khác cũng đang đối mặt giá lương thực và nhiên liệu tăng cao, điều được dự báo sẽ còn duy trì một thời gian nữa. Chỉ số giá lương thực của Liên Hiệp Quốc đã tăng 23,1% trong một năm qua, tính tới tháng 6-2022.

Trong báo cáo mới nhất về tầm nhìn kinh tế thế giới, IMF dự báo tăng trưởng tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ giảm từ 6,8% năm 2021 xuống còn 3,6% năm nay. Kinh tế Mỹ và khối euro được dự báo sẽ rơi vào suy thoái từ cuối năm 2023. Trung Quốc cũng đang trong lộ trình tiệm cận mức tăng trưởng chậm nhất nhiều thập niên.

Khi tăng trưởng yếu đi và lãi suất tăng lên, chi phí vay mượn của nhà nước sẽ tăng lên. Do lạm phát ở Mỹ đang ở mức cao nhất trong 40 năm, Cục Dự trữ liên bang (FED) nước này đã tăng lãi suất liên tục để kiềm chế lạm phát, điều khiến đồng USD mạnh lên và các khoản nợ bằng USD đắt đỏ hơn nhiều - trả lãi thôi cũng đủ mệt mỏi rồi.

Lịch sử có lặp lại?

Trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 6-2022, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định cuộc chiến tại Ukraine sẽ làm trầm trọng thêm những hệ lụy nặng nề của đại dịch COVID-19, khiến tăng trưởng kinh tế tại các nước đang phát triển chậm lại trong 2 năm sắp tới, đẩy hơn 75 triệu người vào cảnh đói nghèo cùng cực và tăng nguy cơ khủng hoảng nợ công.

"Hồi đầu năm chúng tôi đã lường trước mọi thứ sẽ tồi tệ", ông Ayhan Kose, trưởng nhóm dự báo viễn cảnh của WB, nói với FT. "Giờ thì mọi thứ đi từ tệ tới tệ hơn, và giải pháp ứng phó bằng chính sách sẽ rất quan trọng để tránh cho mọi thứ tệ hơn nữa".

WB cho rằng tình trạng hiện nay tương tự thập niên 1970, khi lãi suất được đẩy tăng vọt để kiềm chế lạm phát sau cuộc khủng hoảng giá dầu. Lãi suất tăng quá cao dẫn tới suy thoái kinh tế toàn cầu và một chuỗi khủng hoảng nợ tại những nước đang phát triển những năm 1980. 

Hiện cú sốc về giá cả hàng hóa đã bớt nghiêm trọng, nhưng đà tăng giá vẫn chưa dừng lại khiến nhiều ngân hàng trung ương tiếp tục cân nhắc nâng lãi suất. Một cuộc khủng hoảng nợ lan rộng đã thực sự ở rất gần.

FT nhận định trong khoảng 20 năm qua, ngân hàng trung ương nhiều nước đã tăng lãi suất nhanh chóng và thực thi các chính sách thắt chặt tiền tệ quy mô lớn hơn. Chỉ trong 3 tháng (tháng 3 đến tháng 5-2022), các tổ chức tài chính đã công bố hơn 60 lần tăng lãi suất và dự kiến chưa dừng lại trong những tháng tới.

"Những mức tăng nhỏ nhất trong chi phí vay cũng có thể gây rắc rối - bà Franziska Ohnsorge, tác giả chính báo cáo của WB, nói - Các mức lãi suất toàn cầu năm 2019 thấp hơn và dòng vốn phải tìm điểm đầu tư. Nhưng điều đó sẽ đảo chiều - chúng ta đang thấy những đợt tháo vốn [khỏi các thị trường mới nổi]".■

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận