Hàng xóm

KIỀU BÍCH PHƯƠNG 21/11/2012 00:11 GMT+7

TTCT - Bà tôi chống gậy ra bờ giậu điều đình với hàng xómMẹ tôi về quê canh hàng xóm Vợ chồng tôi quyết định từ bỏ hàng xóm

LTS: Lấy chồng người Bỉ và hiện sống ở Bỉ cùng gia đình, vừa xuất hiện trên kệ sách trong nước với tập ký Vợ Đông - chồng Tây (NXB Trẻ), tác giả Kiều Bích Hương gây bất ngờ cho người đọc bởi lượng thông tin phong phú, đáng chia sẻ được xử lý sinh động bằng một văn phong khúc chiết, tươi sáng.

Trong hai truyện ngắn đầu tiên gửi đến bạn đọc Tuổi Trẻ Cuối Tuần, Kiều Bích Hương tiếp tục nguồn đề tài khó thể hiện nếu không là người trong cuộc: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây, cuộc sống của những cặp vợ chồng đa chủng tộc hay những “câu chuyện gia đình” tưởng nhỏ nhặt mà đầy phong vị...

Phóng to
Tranh: Hoàng Tường

Bà tôi quanh năm gắn bó xứ “bờ xôi ruộng mật”, dặn rằng Bán anh em xa mua láng giềng gần.

Càng ở lâu thôn quê, tôi càng tin khi một đứa con trai ra đời, gia đình đó như vừa sắm thêm được loại vũ khí mới. Nhà tôi ở quê, vuông vắn hơn ba sào đất, đủ ao, chuồng và vườn trước vườn sau. Nhưng vũ khí nhà tôi hầu như chẳng có gì, chỉ toàn sách vở và ba đứa con gái. “Cuộc chạy đua vũ trang” của hàng xóm vây bủa tứ phía.

Nhiều đêm, tôi thức giấc vì trước nhà có tiếng gào thét. Mẹ cố ngủ còn tôi nhổm mông chuồn nhẹ ra ngoài, băng qua khoảng sân rộng, đến gần cái bể cạn đầy cát. Vừa ngồi xuống tôi chạm ngay cái gì mềm mềm, ấm ấm. Cái mông của bà. Bà đang ngồi trong bóng đêm, lắng nghe cuộc cãi nhau tay ba mẹ chồng - nàng dâu - và vũ khí hạng nặng - người đàn ông trụ cột của nhà hàng xóm phía trước. Tôi nép bên bà cùng nghe.

Tiếng khóc át lời, nhưng tiếng quát to và rõ nhất là của đứa cháu đích tôn trong nhà: “Bà im đi, mẹ im đi, bố im đi. Đêm rồi cho hàng xóm ngủ chứ, không biết nhục!”. Im, thế mới tài! Vũ khí tối tân có khác.

Vũ khí tối tân ấy không can thiệp cuộc cãi vã giữa bà cậu ta và bà tôi khi nhà cậu quyết định cắt bụi mây để xây lên bức tường gạch ngăn cách. Bà tôi chống gậy ra bờ rào, lời qua tiếng lại. Tôi sợ. Nhà mình có vũ khí nào đọ sức, ông đã mất còn bố công tác xa. Nhưng bà tôi chẳng bao giờ đôi co lâu, bà gẩy gẩy cái gậy vào đám lá mây vừa bị cắt nát, thủng thẳng: “Chị Sáng ạ, chẳng qua cũng là chỗ chó ỉa thôi, có chết tôi với chị cũng chẳng ra đây nằm được”.

Bà hàng xóm im, bức tường mới lấn sang nhà tôi ít đi một chút. Nhưng từ đó cửa sổ nhà ấy thường tuồn sang vườn nhà tôi hàng đống kim tiêm, lọ nước cất, lá bánh, vỏ kẹo. Bà chỉ cười, không cho chúng tôi bước vào, cũng chẳng muốn mẹ tôi hốt dọn. Chẳng mấy chốc đống rác thải ùn đến bệ cửa sổ, mùi hôi xộc vào chính nhà họ.

***

Bà mất, bố mất. Chị em chúng tôi rời quê lên thành phố. Mẹ về hưu, cũng lên thành phố. Nhưng mẹ cứ loanh quanh nhớ vườn. Một ngày, tôi còn ngủ nướng vì được nghỉ phép, mẹ lật chăn, ra lệnh “Chở mẹ về quê”. Trước đó mẹ nhận tin báo của người cháu họ trông giúp nhà ở quê: “Hàng xóm phía sau xây nhà, thím về ngay kẻo chúng lấn đất”. Người ta lại xây tường ngay trên bờ giậu cũ, nước thải chuồng lợn chảy sang nhà tôi. Đám lá lốt xương sông xanh đen theo dòng chảy, muỗi mòng chấp chới cùng mùi hôi thối. Khoảng vườn sau u ám hoang dại.

“Cháu ơi, mình ở quê sướng nhất là có vườn có giậu, cháu phá giậu xây tường nhà chòi sang cả đất nhà cô, thất sách quá. Sao không đào cái hầm ủ phân, vừa tưới rau bón lúa vừa đỡ ô nhiễm”. Anh hàng xóm tuổi ngoài ba mươi ngó sang, nụ cười đen nhẻm: “Vườn bà rộng quá, cho cháu vẩy nhờ cái mái một tí. Nhà cháu đông anh em trai, đất chia tư, không còn chỗ làm chuồng ủ phân đâu ạ. Mà ủ cũng chẳng để làm gì, bán hết ruộng đổi đời công nhân cả rồi. Hai thằng con cháu lớn lên cũng cho đi xuất khẩu lao động Nam Phi”.

Bảo mãi không được, tôi sốt ruột: “Biết đâu chú có cách”. Chú tôi - đại tá về hưu ở cách đó mươi nhà. Chú vào, hai tay chống nạnh đi lại như một vị tướng dò trận địa. Nửa tiếng sau, chú oang oang gọi hàng xóm: “Anh giải quyết đống phân lợn này ngay cho tôi. Chị dâu cả không ở đây thường xuyên, nhưng bàn thờ tổ tiên nhà tôi vẫn đây, hương khói là các cụ về. Ô uế thế này không được. Anh không làm hôm nay, mai tôi cho người đến đào đường hào công sự sát tường nhà anh, đào thật sâu, vừa làm hầm ủ phân cho nhà anh vừa xói thẳng móng tường nhà anh. Đất vườn nhà, tôi muốn làm gì thì làm”.

Hôm sau nước thải không chảy sang nhà tôi nữa.

***

Cũng đến ngày tôi lấy chồng, không ở Hà Nội, chẳng về quê. Tôi theo chồng sang Hà Lan. Nửa năm đầu vợ chồng thuê tạm căn nhà ở trung tâm thành phố. Cảnh sát thỉnh thoảng gõ cửa vì bà lão hàng xóm kêu ca chồng tôi sửa chữa máy móc, hàn xì gây ồn cả những ngày cuối tuần. Ngân hàng đồng ý cho vay tiền mua nhà, vợ chồng tâm đầu ý hợp, dứt khoát phải tìm cái nhà cách xa hàng xóm, không hàng xóm càng hay.

Thiên đường hiện ra sau bao ngày tìm kiếm. Một ngôi nhà be bé lưng chừng đồi trong khu công viên cây xanh lác đác vài gia đình sinh sống. Mùa xuân rực màu xanh non, mùa hè nắng lấp lánh tán lá, mùa thu bừng sắc đỏ vàng, mùa đông nhấp nhô sóng tuyết. Tuyệt hơn thế, hai khoảnh đất bên phải và bên trái nhà rộng hàng nghìn mét vuông chạy vút lên đỉnh đồi có đánh số, toàn cây xanh. Thỉnh thoảng lũ sóc phi qua phi lại ngó hạt dẻ, cả năm tuyệt không bóng người thăm nom.

Tôi mang thai, nhà trở nên chật chội. Phải cơi nới phòng nữa. Dự án vạch ra, bếp cũ cải tạo thành phòng ngủ, bếp mới sẽ xây áp hông nhà. Vợ chồng lên ủy ban xin phép. Nhân viên địa chính chém tay vào tập hồ sơ: “Không xây thêm. Nguyên tắc nhà ở của anh chị phải cách đất hàng xóm năm mét để đảm bảo an toàn. Nên nhớ đây là khu công viên cây xanh”.

Lạ thật, giờ tôi và chồng lại khát khao tìm hiểu hàng xóm là ai. Liệu họ có bán thêm cho chúng tôi một miếng đất nhỏ đủ xây cái bếp mà khoảng cách đến hàng rào vẫn bảo đảm năm mét?

Không ai trả lời được, ngoại trừ chính người bán nhà cho chúng tôi. Ông đời nào nói nếu chúng tôi chưa mua nhà, nhưng giờ ông tận tâm, cởi mở: “Cả vạt đất đó thuộc một chủ. Khi còn sống, ông ấy từng xẻ vài miếng bán, tôi mua một miếng xây nhà nghỉ mùa hè, giờ là nhà nghỉ bốn mùa của anh chị, phải không nào. Khi ông ấy qua đời, tôi nghe nói di chúc không rõ ràng, con cháu đưa nhau ra tòa. Xử đi xử lại, hòa giải mãi không xong. Mệt mỏi, tòa án ra phán quyết tôi cho là tuyệt đỉnh - tạm dừng vụ xử tranh chấp này, một trăm năm sau mở lại. Thời gian chính xác tôi không rõ, có lẽ nhanh cũng năm chục năm nữa”.

Lịch sử mỗi quốc gia gắn liền những cuộc chiến tranh, lịch sử mỗi gia đình gắn liền những cuộc tranh chấp tài sản thừa kế! Về nhà, đêm khuya tôi ngồi trên giường nghe mưa dông, gió thúc đám cây hai bên nhà chuyển động như khua gươm múa giáo! “Chuyển nhà không anh?”, tôi buột miệng hỏi chồng. “Chuyển đi đâu? Ở đâu chẳng có hàng xóm. Ngủ thôi”. Rồi anh ngủ. Tôi cũng gắng thỏa hiệp với giấc ngủ, nhưng chập chờn hình ảnh đường hào công sự rộng năm mét sâu hoắm hiện ra sau lưng còn rừng cây đang rùng rùng trước mặt.

____________

Chị lật đật dậy từ bốn giờ sáng. Hai đứa con còn say giấc. Chị rón rén ra phòng khách, bật máy vi tính. Hơn chục thư mới, nhưng không có cái nào của Bert. Lần cuối cùng chị kết nối với khách sạn rẻ tiền ở Brussels nơi anh thuê trọ, họ nói anh rời đi vài ngày rồi. Chị đứng lên, lấy khăn giấy lau đi lau lại chai cognac uống dở đã bám bụi rồi đặt lại tủ kính. Hôm anh đi, vợ chồng cụng với nhau một ly, mong chuyến hồi hương thuận buồm xuôi gió. Đã một tháng trôi qua. Bặt tin chồng.

Chị dằn lòng lại, đọc thư điện tử. Một thư của công ty kiểm toán quốc tế: “Chúng tôi đã nghiên cứu hồ sơ xin việc của bạn, rất tiếc không phù hợp”. Thư của người bạn gái đang làm trợ lý tổng giám đốc khách sạn năm sao: “Tao đã nộp CV của Bert cho sếp, lão chê. Đừng buồn nhé. Cơ bản là vị trí giám đốc tiền sảnh họ muốn dành cho người Việt. Khó khăn kinh tế chung mày ạ, trước đây chỉ thích tuyển người nước ngoài cho oai, bây giờ chỉ muốn đuổi việc vì phải trả lương cao”.

Hồi âm của người chị họ đang điều hành một resort ở Phan Thiết: “Bọn chị cũng cần người như Bert, nhưng lương ba ngàn đôla mỗi tháng nặng quá. Chúc em và Bert may mắn”. Tiếp theo là thư của trường quốc tế nơi hai con chị theo học. Chắc lại nâng học phí.

Chị không thể đọc nữa, uể oải mở cửa sổ đón gió ngày mới của hồ Tây thổi vào. Bà Hòa hôm qua ngọt ngào nhắc khéo tiền nợ thuê nhà mấy tháng. Khác hẳn ba năm trước, cũng bà quát ầm ầm qua điện thoại: “Nể vợ chồng cô lắm tôi tiếp tục cho thuê chứ người ta mang bao tải tiền đến đòi mua đây này. Hét giá nào cũng chồng tiền. Nhà hồ Tây vô giá cô ơi”. Nếu Bert cứ bặt tin thế này, chắc chị phải chuyển đi nơi khác. Tranh thủ hít thở không khí trong lành và ngắm nắng ban mai lấp lánh trên mặt hồ, biết đâu chẳng còn lâu nữa!

***

Bert buộc con chó trắng như cục bông vào cái giá sắt để dựng xe đạp ngoài cổng nghĩa trang rồi lặng lẽ tìm phần mộ hai người chị gái. Nghĩa trang mùa thu rực màu lá phong đỏ. Những con đường rải sỏi nhỏ lạo xạo như muốn đánh thức người nằm dưới mộ mỗi khi có ai qua lại thăm nom. Tám năm rồi anh không về Bỉ, lần trở lại này để tìm việc làm và cơ hội đưa vợ con về quê nội.

Cả tháng nay anh gõ cửa biết bao công ty, nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu, hứa hẹn hơn: gắng chờ đợi. Số tiền vợ tích cóp cho anh về Bỉ đã tiêu cả vào khách sạn, ăn uống, đi lại. Anh đành tìm về thành phố Genk ở nhờ anh trai và ngày ngày dắt chó của chị dâu đi dạo. Không có hoa đặt lên mộ các chị, anh rút chiếc khăn mùi xoa ra lau sạch hai tấm bia. Ngồi trầm tư một lúc, Bert sực nhớ ra con chó, anh vội vã đứng dậy.

Chiếc xe Jaguar XJL bóng loáng của anh trai đậu trước sân, nhưng chiếc Phantom của chị dâu chưa về. Bert dắt con chó vào phòng riêng của nó với đầy đủ giường nệm xinh xinh và đồ chơi bằng bông thơm tho sạch sẽ. Anh vào bếp lấy ra hai lát bánh mì, nhét một miếng salami mỏng tang vào giữa. Anh trai của Bert cũng vào bếp, nhìn em từ đầu đến chân:

- Chú ở đâu về?

- Em ra nghĩa trang thăm hai chị. Hôm nay là ngày tảo mộ mà anh. Giá em có tiền, em sẽ bay sang Israel thắp nến cho bố mẹ.

Anh trai kéo ghế ngồi đối diện em.

- Tôi cũng định bàn với chú về căn nhà của bố mẹ ở Israel đây. Bán đi chia đôi nhé.

- Bố mẹ mới bị bọn cướp sát hại mà anh đã tính bán nhà - miếng bánh khô nghẹn trong miệng Bert.

- Chú cũng định về Israel sống và chết ở đó hả. Nhìn lại mình đi, muốn về đó phải có hồ sơ tài chính cao ngất ngưởng mới trụ được. Đất Thánh cơ mà, bất ổn cũng chẳng ngăn cản được dòng người sùng đạo muốn về đó như bố mẹ đã quay về năm năm trước đâu.

Bert lặng im. Anh trai ném lên bàn một đống báo và hóa đơn.

- Đây, chú xem. Chú ở nhà tôi cả tháng nay, tiền phụ trội điện nước, điện thoại, xăng xe... cả nghìn euro rồi. Chú lấy gì trả vợ chồng tôi? Vận động cái đầu Do Thái của chú một chút đi. Bán nhà ở Israel, chú sẽ có tiền về lại Việt Nam với vợ con, mua một cái nhà cắm rễ ở đó cho chắc. Hoặc lý tưởng hơn, theo tôi, chú cứ mua quách nhà ở đây làm lại cuộc đời, lấy vợ khác, sinh con khác, đỡ xa xôi tốn kém. Chú đọc báo hôm nay đi, nhà máy Ford ở thành phố Genk này vừa đóng cửa, hơn bốn nghìn người mất việc. Chú không tính sớm, chẳng mấy chốc châu Âu này cũng không còn việc gì để làm đâu.

***

Chị khệ nệ xách hai cái làn thức ăn đến gần cửa, hai đứa con tung tăng chạy trước bỗng reo lên: “Bố về, bố về rồi mẹ ơi”.

Chị quẳng làn, chạy vào nhà. Anh nằm trên sofa, tư thế co quắp. Gương mặt nhợt nhạt, thân hình teo tóp, mùi vô gia cư phảng phất quanh đống quần áo nhàu nát. Chị ôm lấy anh, nghẹn ngào: “Anh về là mừng rồi. Em vừa nhận thêm giờ đứng lớp. Một công ty tư vấn tài chính đã hẹn phỏng vấn. May quá, anh về kịp. Họ nói trước, nếu tuyển cũng chỉ trả lương cho anh như nhân viên Việt Nam, em đồng ý luôn rồi. Em bảo chồng tôi ở Việt Nam đã tám năm, ăn cả nộm rau muống trộn mắm tôm nên mức lương đó đủ duy trì cuộc sống. Họ có vẻ thích anh ạ”.

Chị cứ ôm anh và nói liên hồi. Anh cũng gật đầu lia lịa. Chị mở cửa sổ đón nắng và gió hồ Tây. Anh nhắm mắt lại, xua tay. Chị vội khép cửa sổ, đắp cho chồng chiếc chăn. Miệng anh tỏa ra mùi rượu. Chị nhìn lên tủ, chai cognac đã biến mất. Anh xoay lưng về phía chị, miệng lẩm bẩm: “Cho anh về Jerusalem”.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận