Kinh tế Việt Nam 2012: kỳ vọng tăng trưởng bền vững

TS TRẦN VINH DỰ 31/12/2011 11:12 GMT+7

TTCT - Năm 2011 là một năm đầy “dông tố” trên lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Cũng là năm Việt Nam đứng trước ngã ba đường - quyết liệt đổi mới mạnh mẽ để khởi đầu một giai đoạn phát triển mới hoặc chìm sâu vào khủng hoảng và bẫy cân bằng thấp.

Phóng to

Biến động CPI theo tháng, giai đoạn 2007-2011

Để đánh giá cho đúng các diễn biến đã xảy ra trong năm qua, không thể nhìn nhận năm 2011 như là một năm tách rời mà phải đặt trong chuỗi lịch sử ít nhất từ khoảng năm năm trở lại đây. Lý do là chính các diễn biến trong suốt quá trình lịch sử này đã kết đọng các hậu quả trong hệ thống kinh tế, cuối cùng bộc lộ ra vào năm 2011.

Cơn bão lạm phát và thách thức đối với người nghèo

Diễn biến được quan tâm nhiều nhất trong năm qua là tình trạng mất giá của tiền đồng. Tính đến hết tháng 12, tốc độ tăng CPI của Việt Nam trong cả năm 2011 là 18,12%, cao hơn rất nhiều so với mục tiêu ban đầu Quốc hội và Chính phủ đề ra hồi đầu năm (7%). Nhìn lại trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự mất giá của tiền đồng năm 2011 chỉ thua năm 2008 chút ít và cao hơn đáng kể so với tất cả các năm còn lại.

Lý do cơ bản để lạm phát bộc lộ mạnh những năm gần đây là quá trình phát triển kinh tế dựa vào đầu tư và tình trạng kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn suốt cả thập niên qua. Hiện tượng này phổ biến cả trong khu vực doanh nghiệp (DN) nhà nước và khối DN tư nhân/nước ngoài. Việc phát triển dựa trên đầu tư khiến lượng cung tiền trong nền kinh tế liên tục tăng với tốc độ chóng mặt.

Theo Ngân hàng Phát triển châu Á, suốt giai đoạn 2006-2010 lượng cung tiền M2 (tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng) của Việt Nam liên tục tăng ít nhất 20% mỗi năm, cá biệt có năm tăng tới 46% (năm 2007). Lượng cung tiền M2 của năm 2010 là 2.789,2 nghìn tỉ đồng, tăng gấp hơn ba lần so với năm 2006 và gấp xấp xỉ 10 lần so với năm 2001.

Việc tăng cung tiền với gia tốc lớn như vậy trong khi thực lực của nền kinh tế không mạnh, hiệu quả sử dụng vốn thấp khiến lượng hàng hóa sản xuất ra không tăng cùng nhịp với tăng cung tiền. Từ đó tất yếu dẫn tới giá cả leo thang. Cao điểm của lạm phát là vào năm 2008 do tốc độ tăng cung tiền quá lớn vào năm 2007. Tiếp sau đó, năm 2009 lạm phát hạ nhiệt xuống dưới một con số vì chính sách thắt chặt trong năm 2008. Khi cung tiền được nới lỏng trở lại (năm 2009 và 2010), tiền đồng tiếp tục mất giá trong năm 2010 và 2011.

Lạm phát cao đẩy cuộc sống của người dân, đặc biệt những người có thu nhập trung bình hoặc dưới trung bình, vào vòng xoáy nguy hiểm của suy thoái sức mua. Đó thật sự là vấn đề lớn nhất về kinh tế của năm 2011.

Doanh nghiệp và ngân hàng vượt cạn

Tất cả hệ thống DN, kể cả trong và ngoài nhà nước, đều liên tục tăng quy mô và lĩnh vực hoạt động dựa trên việc đi vay. Tài sản thế chấp hấp dẫn đối với hệ thống ngân hàng thường là bất động sản và trong một giai đoạn nhất định bao gồm cả cổ phiếu. Việc giá đất tăng lên trung bình 10-30 lần (tùy địa bàn) trong vòng 10 năm trở lại đây khiến câu chuyện vay nợ dựa vào thế chấp bất động sản trở nên đặc biệt dễ dàng.

Tình trạng dùng đòn bẩy tài chính quá mức trở nên phổ biến ở hầu như khắp nơi. Theo tính toán của Quỹ Tiền tệ quốc tế, tỉ lệ nợ trên vốn của các DN niêm yết ở Việt Nam giai đoạn 2009-2010 xấp xỉ 100%, cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc và Indonesia (dưới 90%), Thái Lan và Malaysia (dưới 80%) hoặc Singapore (xấp xỉ 70%).

Tình trạng vay mượn của DN cũng được phản ánh ở mức tăng trưởng tín dụng nội địa (các khoản cho vay của ngân hàng đối với các DN ở Việt Nam). Tỉ lệ này tăng liên tục ít nhất 22% trong năm năm (2006-2010), có năm lên tới xấp xỉ 50% (2007). Tính theo GDP, tỉ lệ tín dụng nội địa của Việt Nam năm 2010 đã lên tới 131,5%.

Việc vay mượn nhiều đẩy DN vào hai hố đen: Thứ nhất là công suất dư thừa do đầu tư mở rộng quy mô vô tội vạ và kinh tế toàn cầu suy sụp khiến thị trường đầu ra không tốt như dự đoán. Thứ hai là gánh nặng lãi suất quá lớn. Kết hợp hai yếu tố này lại dẫn tới một thực tế DN không có khả năng trả các khoản nợ đến hạn, tạo ra nhu cầu đảo nợ và vốn hóa lãi vay.

Tình trạng lạm phát cao trong năm 2011 và các khoản nợ đến hạn không trả được (nợ xấu hay nợ dưới chuẩn) khiến các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất huy động và lãi suất cho vay, tạo ra một cuộc cạnh tranh lãi suất để thu hút nguồn tiền gửi nóng bỏng.

Trước khi Ngân hàng Nhà nước áp dụng triệt để mức trần lãi suất huy động 14%/năm, đã có những thời kỳ lãi suất huy động lên tới trên 20% trong khi lãi suất cho vay trung bình dao động trong mức 25-30%/năm. Đến lượt nó, câu chuyện chạy đua lãi suất có tác dụng ngược với DN, đẩy họ vào khó khăn. Đây chính là vấn đề lớn thứ hai của kinh tế năm 2011.

Động thái dứt khoát của nhà nước

Năm 2011 chứng kiến những quyết sách mạnh mẽ và cam kết bền bỉ của Nhà nước và Chính phủ, tập trung vào việc giải quyết các bài toán cấp bách nhất về kinh tế.

Nghị quyết 11 xuất hiện từ tháng 4-2011 với mục tiêu tấn công trực diện vào cơn bão lạm phát với hai gọng kìm thắt chặt chính sách tài khóa qua cắt giảm đầu tư công và thắt chặt tiền tệ qua hạn chế tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho khu vực phi sản xuất. Mặc dù chịu rất nhiều áp lực trong thực hiện, đặc biệt từ các đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách thắt chặt này, nhưng tới nay Chính phủ vẫn giữ vững được cam kết của mình.

Sau khi lên tới mức cao nhất vào tháng 4-2011, mức tăng CPI đã giảm nhanh và trở lại mức có thể kiểm soát được từ nửa sau của năm. Đặc biệt từ tháng 8-2011, tăng CPI tính theo tháng đã giảm còn dưới 1%. Đây là cơ sở để dự đoán nếu Nhà nước tiếp tục kiên định con đường đang đi thì lạm phát có thể quay về ở mức một con số trong năm 2012.

Một thành công hết sức quan trọng khác của Chính phủ là bắt tay vào vực dậy hệ thống ngân hàng. Quá trình này được khởi động từ chính sách áp trần lãi suất 14%/năm của Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù các ngân hàng thương mại vẫn có nhiều kỹ thuật lách quy định này, tuy nhiên việc lách là khó khăn hơn nhiều và hầu như không áp dụng được đối với những người gửi tiền nhỏ lẻ. Động thái chính sách này đã dẫn tới chuyện lãi suất cho vay của các ngân hàng được kéo thấp xuống đáng kể, dù chưa hoàn toàn giống như kỳ vọng ban đầu là 17%.

Không chỉ có cải cách ngân hàng, Nhà nước còn đưa ra thêm hai trọng điểm trong “chiếc đinh ba cải cách”. Đó là cải cách DN nhà nước và cải cách về đầu tư công. Việc cải cách đầu tư công một phần tiếp nối tinh thần của nghị quyết 11, nhưng phần quan trọng hơn là tạo ra các cơ chế thích hợp có thể thực hiện được để nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư công của Nhà nước. Việc cải cách DN nhà nước đã được bắt đầu với việc công khai hóa các vấn đề về quản trị và tài chính trong các tập đoàn và tổng công ty nhà nước lớn như Petrolimex và Tập đoàn Điện lực VN.

Năm 2012 sẽ là năm tiếp tục thử thách sức chịu đựng của công chúng và DN. Nó cũng là năm thử thách quyết tâm của Nhà nước trong việc thực hiện các cam kết và chương trình cải cách đã đặt ra. Nếu các nỗ lực cải cách này bị bỏ dở, câu chuyện năm 2011 sẽ trở lại tình thế năm 2008, tức là tình hình có vẻ tốt lên trong một thời gian rất ngắn (2009), sau đó quay lại quỹ đạo khủng hoảng kéo dài (2010-2011) và kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục nằm trong trạng thái “cân bằng thấp” như thời gian vừa qua.

Nếu các nỗ lực cải cách này được duy trì và thành công, năm 2012 sẽ là năm đóng lại một thập niên tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào đầu tư, mở ra một thập niên mới tăng trưởng bền vững hơn dựa vào tăng hiệu quả kinh tế và năng suất lao động. Với những gì Chính phủ đã cam kết và đang thực hiện, có lý do để tin rằng năm 2012 sẽ đi theo kịch bản này. Đây cũng là mong muốn và kỳ vọng của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam dịp đầu năm 2012.

Bình luận Xem thêm
Bình luận (0)
Xem thêm bình luận