TTCT - Nobel Văn chương 2025 - giải thưởng độc giả đã mong đợi từ lâu cho tác giả László Krasznahorkai. László Krasznahorkai năm 2022. Ảnh: Mirco Toniolo/Errebi and ShutterstockKhông hiểu thông lệ Ủy ban Nobel gọi điện thoại thông báo cho người được trao giải có từ bao giờ - gây ra những vụ dở khóc dở cười như nhà văn nổi tiếng người Ireland John Banville bị ai đó lừa chơi khăm, hay nữ giáo sư người Mỹ Mary E. Brunkow nghĩ là cuộc gọi rác nên lỡ tin mình đoạt giải Nobel y sinh 2025 - chứ vào cái ngày công bố Nobel văn chương hồi tháng 10-1969, khả năng cao không ai gọi nổi cho Samuel Beckett.Ngay sau khi nhận được bức điện của Jérôme Lindon, giám đốc Nhà xuất bản Minuit - nơi in các tác phẩm của ông, "Sam và Suzanne thân mến, bất chấp mọi thứ họ cũng đã trao cho anh giải Nobel - Tôi khuyên hai người nên trốn đi" - hai vợ chồng Beckett liền trốn chui trốn lủi trong khách sạn ở Tusinia để tránh giới truyền thông. Cái giải thưởng danh giá mà nhà nhà, người người, hết dân tộc này tới dân tộc khác ước ao ấy, dưới ánh mắt của người vợ bực bội của Beckett, là "thảm họa".56 năm sau, tháng 10-2025, một nhà văn châu Âu khác đã nhắc lại từ "thảm họa" này khi tên ông vang lên trong lễ công bố Nobel văn chương: László Krasznahorkai. May mắn thay, ông coi giải thưởng này còn hơn là thảm họa, nó là hạnh phúc và tự hào, vì ông "được đứng trong hàng ngũ của những nhà văn và nhà thơ tài ba như vậy đã mang lại cho [ông] sức mạnh để sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, tiếng Hungary".Từ một nhà văn Hungary hồi những năm đầu thập kỷ 1980 mới xuất bản vài thứ nho nhỏ đã bị tịch thu hộ chiếu không thể đi ra nước ngoài, giờ đây Krasznahorkai đã là một nhà văn toàn cầu với các tiểu thuyết và truyện ngắn được dịch ra 42 ngôn ngữ, và phủ đầy mình đủ các thể loại giải thưởng. (xem box).Phải lâu lắm rồi mới có một giải Nobel văn chương mà vắng bặt những lèm bèm kiểu "lại một nhà văn tầm tầm đoạt Nobel" hay "sao một cái giải đầy tính chính trị như thế này lại đi trao cho kẻ ủng hộ diệt chủng" hoặc buông ra một thuật ngữ đầy miệt thị "nugu" - ai thế? - khi một cái tên lạ hoắc được xướng lên khiến cả văn đàn ngỡ ngàng, thậm chí không ai biết cách đánh vần cái tên ấy. Có chăng thì là một tiếc nuối đầy khốn khổ của những fan hâm mộ ở Romania, một nước anh em Đông Âu hậu Xô viết, dành cho nhà văn Mircea Cărtărescu của họ - một tên tuổi lẫy lừng và tài văn chả hề kém cạnh, bởi xác suất để Nobel quay theo giới tính và địa lý để vòng đến ông kể từ đây hơi bị thấp. Trong một thập kỷ qua, László Krasznahorkai chính là người luôn xuất hiện trong các giải cá cược Nobel, người luôn được độc giả trong các diễn đàn văn chương quốc tế nhất tề ủng hộ và mong mỏi trúng giải, người luôn được các nhà phê bình hàng đầu ngưỡng mộ, người đã thu hút bao độc giả tôn sùng "văn chương cao cấp" vào câu lạc bộ của mình.Đã đọc ông rồi mà còn dám lèo nhèo chê văn ông thì khả năng cao bị tẩn hội đồng ngay là gu kém. Các tiểu thuyết của Krasznahorkai "không hoạt động ở tầm mức trung bình" vì ông không bao giờ thỏa hiệp và không có nhu cầu tiếp cận nhiều độc giả."Chúng ta đang sống trong tận thế"Lý do mà Ủy ban Nobel đưa ra khi trao giải cho László Krasznahorkai là "vì sự nghiệp sáng tác đầy sức cuốn hút và tầm nhìn tiên tri của ông, mà giữa nỗi kinh hoàng tận thế, đã tái khẳng định sức mạnh của nghệ thuật".Rọi lời nhận định này vào bộ năm tiểu thuyết của ông (thứ tự lần lượt: Vũ điệu quỷ Satan (1985), Nỗi buồn Kháng cự (1989), Chiến tranh và Chiến tranh (1999), Nam tước Wenckheim về quê (2016) và Herscht 07769 (2021), độc giả dễ dàng tìm ra hàng loạt hình ảnh, biểu tượng hay những tình huống nơi xã hội con người mục ruỗng trên bờ vực tan rã. Trên bề mặt, tác phẩm của ông dày đặc những trận mưa không dứt, những mùa đông rét mướt, những thị trấn xa xôi ngập trong bùn và rác của một xã hội mấp mé hậu Xô viết, cảm giác ngột ngạt, đầy bất an và nguy hiểm bủa vây những con người cả đời chỉ quẩn quanh ở bên lề, những màu xám và đen kịt phủ kín không gian như trong một thế giới phản địa đàng. Nhà phê bình danh tiếng Susan Sontag từng gọi Krasznahorkai là "bậc thầy Hungary đương đại của tận thế" - một danh xưng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cách giới phê bình tiếp nhận và diễn giải tác phẩm của ông.Trong cuộc phỏng vấn với Claudia Steinberg, Krasznahorkai đã nói rằng: "Tôi đã nhiều lần cố gắng diễn đạt rằng tôi cho rằng ý nghĩa nguyên thủy của từ "apocalypse" (khải huyền) mới là điều quan trọng nhất: tức là khải huyền không phải là một biến cố tận thế nào đó đang đe dọa chúng ta và vẫn còn ở phía trước. Không, khải huyền chính là hình thức tồn tại của hiện tại. Mỗi khoảnh khắc đều là khải huyền. Hãy ý thức điều đó mỗi khi chúng ta nói đến cái gọi là đời sống thường nhật!". Khải huyền, trong tác phẩm của Krasznahorkai, không còn là cách thức mà tận thế được tiết lộ nữa, mà mỗi khoảnh khắc đều mang tính khải huyền bởi nó đều là một sự hé lộ, phơi bày bản chất của thực tại.Ảnh: ReutersThực tại đó, ở tầng sâu hơn, chính là sự đánh mất sự tự quyết về mặt đạo đức của con người: dưới sức ép của hoàn cảnh, xã hội, quyền lực, các nhân vật của Krasznahorkai đã không còn nội lực để đứng lùi lại khỏi những ham muốn tự nhiên của mình. Kết quả là hỗn loạn tràn ngập nơi nhân tính sụp đổ, và những nỗ lực vượt thoát khỏi thực tại đều kết thúc trong bi kịch.Những người dân làng trong nông trang tập thể của Vũ điệu quỷ Satan đã hoàn toàn khuất phục trước hoàn cảnh mục rữa của họ. Bị nỗi sợ hãi và sự tuyệt vọng bào mòn, họ không còn ý chí để kháng cự. Vì vậy, khi Irimiás, một tên chỉ điểm trá hình trong hình tượng người cứu rỗi xuất hiện, họ sẵn sàng trao nộp chút tự chủ cuối cùng của mình cho một lời hứa cứu rỗi hão huyền. Họ trở thành những thực thể bị tước đoạt ý chí, bị dẫn dắt vào một bi kịch còn lớn hơn, nơi nỗ lực vượt thoát của họ chỉ là một cái bẫy.Trong Nỗi buồn Kháng cự, sự hỗn loạn nhấn chìm thị trấn đã xóa sổ nội lực của người dân khi bị kích động bởi nhân vật Hoàng tử, đám đông hành động theo bản năng đã phá hủy mọi thứ. Sự sụp đổ nhân tính này mở đường cho quyền lực độc đoán của bà Eszter, kẻ từ đó dễ dàng áp đặt trật tự lên một cộng đồng đã bị khuất phục. Quả thật, đúng như lời Krasznahorkai khẳng định, "ngày tận thế là bây giờ. Ngày tận thế là một sự phán xét đang diễn ra"."Không hy vọng nhưng với hy vọng lớn lao"Trong văn chương của Krasznahorkai dường như có hai xung lực giằng co nhau: ở một đầu là cảm thức sụp đổ khi tác giả liên tục tuyên bố, "Tôi không phải là một con chim hoàng yến trong hầm mỏ cố gắng cảnh báo bất cứ ai về ngày tận thế. Tiếng hót của tôi nói rằng: "Đã quá muộn để cứu chúng ta, đã quá muộn..."; ở đầu kia là một hệ thống những nhân vật kháng cự lại sự sụp đổ, dẫu có thất bại".Krasznahorkai, một độc giả ngưỡng mộ Dostoyevsky, là fan cuồng của típ nhân vật như Hoàng thân Myshkin trong Chàng ngốc: những người ngây thơ thánh thiện, không nơi nương tựa, mang trong mình niềm tin thuần khiết và không lay chuyển vào một vũ trụ nhiệm mầu, và chính vì thế trở thành con mồi vô cùng yếu đuối trước sự bạo tàn của thế giới. Hình mẫu này được thể hiện qua cô bé Estike trong Vũ điệu quỷ Satan ngây thơ tin vào lời nói dối trá về cây tiền rồi bị anh trai lừa và tự kết liễu đời mình bằng thuốc độc; qua János Valuska trong Nỗi buồn Kháng cự với tâm hồn đơn sơ, say mê với sự hòa điệu của vũ trụ (mà cảnh anh diễn lại chuyển động của Mặt trời và Mặt trăng là một điểm sáng lòa trong cái thị trấn tăm tối), không sao hiểu nổi sự hỗn loạn và ác tâm đang nuốt chửng thị trấn của mình để rồi cuối cùng anh bị xem là kẻ điên; qua Korin trong Chiến tranh và Chiến tranh, một nhân viên lưu trữ hoàn toàn bất lực trước đời, nhưng lại bị thúc đẩy bởi một sứ mệnh thiêng liêng: gìn giữ một cảo bản đẹp đẽ bị quên lãng; hay qua chính là Nam tước Béla Wenckheim trở về quê nhà ở Hungary sau nhiều năm sống lưu vong bị thế giới xung quanh áp đặt lên ông những hy vọng, ảo tưởng tuyệt vọng, những toan tính của riêng mình.Vẫn tồn tại một cảm thức khát khao một vẻ đẹp siêu việt ở các nhân vật của ông, dẫu nỗi khát khao ấy được thể hiện bằng một sự kiên cường đến điên cuồng tuyệt vọng trong tinh thần của con người. Những nhân vật với đức tin ngây thơ vào một thế giới nơi sự tốt lành là những bằng chứng về tính khả thi của sự tự quyết đạo đức vốn tưởng chừng đã trở nên hoàn toàn tuyệt chủng ở những người khác.Những chuyến đi đến Trung Quốc và Nhật Bản đã để lại ấn tượng sâu sắc với Krasznahorkai đến nỗi trong hai tác phẩm sau này là A Mountain to the North, a Lake to the South, Paths to the West, a River to the East (Phía Bắc là núi, phía Nam là hồ, phía Tây là đường, phía Đông là sông) và Tây Vương Mẫu giáng hạ, ông đã tập trung vào một cõi vượt qua giới hạn của thực tại với một niềm tin rằng cái đẹp siêu việt có thể tồn tại, và nó có thể tồn tại là do con người chúng ta. Người cháu trai của Hoàng tử Genji trong A Mountain... tuyệt vọng trong hành trình truy tìm khu vườn hoàn hảo, một tu viện ẩn giấu giữa lòng Kyoto hiện đại, còn trong Tây Vương Mẫu giáng hạ, mỗi nghệ sĩ, từ người phục chế tượng Phật đến họa sĩ thời Phục Hưng, đều hiến dâng trọn đời mình cho một khoảnh khắc nghệ thuật siêu phàm duy nhất. Họ là chứng nhân cho niềm tin rằng sự tận hiến cho cái đẹp là lựa chọn đạo đức tối hậu, một khả thể tưởng như đã biến mất khỏi thế giới này.Với một thứ tận thế là hiện tại tiếp diễn, liệu chúng ta có thể ngăn chặn được hay không? Câu trả lời, hóa ra đầy lãng mạn và nhân văn: đó là nhiệm vụ của nghệ sĩ. Bởi, "nghệ thuật là phản ứng phi thường của nhân loại trước cảm giác rằng lạc lõng là số phận của chúng ta"."Chỉ có Chúa mới cần dấu chấm"Dịch giả và nhà thơ George Szirtes gọi văn xuôi của Krasznahorkai "một dòng dung nham chậm của câu chuyện, một con sông mực đen rộng lớn". Đặc điểm dễ nhận thấy, vừa làm nên tên tuổi và khiến độc giả yêu mến nhất cũng đồng thời có tác dụng như một vật cản đường khiến nhiều độc giả ngã lòng nhất khi đọc văn xuôi của ông chính là sự thiếu vắng đến mức tuyệt đối dấu chấm câu. Các tác phẩm của Krasznahorkai thường bao gồm những câu văn dài dằng dặc, kéo dài từ vài trang đến vài trăm trang (đỉnh điểm là cuốn tiểu thuyết Herscht 07769, 416 trang và là một câu duy nhất). Những câu văn của Krasznahorkai như được viết ra trong một trạng thái xuất thần và có năng lực thôi miên, cuốn độc giả vào dòng chảy cuồn cuộn của nó. (Mời bạn đọc thử hơn 3.000 từ và không có dấu chấm ở đây).Nhưng ông lại không coi văn bản của mình là dung nham, bởi dung nham chậm, còn văn bản của ông "giống như một sinh vật lao đầu chạy không kịp thở, mang một số phận nhất định trong tâm hồn của nó, chạy trốn khỏi một thứ gì đó và đồng thời hướng tới một thứ gì đó khác". Văn bản lao đi và vì thế người viết cũng lao theo văn bản, cho đến lúc "một ai đó mạnh mẽ hơn tôi rất nhiều, hoặc chúng ta, thì thầm vào tai tôi, "Này, đây là nơi bạn sẽ đặt dấu chấm đó"".Những câu văn dài ấy thực tế hoàn toàn không cao siêu để độc giả phải sợ hãi hay ngại ngần, bởi chúng đến từ chính ngôn ngữ nói của chúng ta: từ những tình huống thực tế hằng ngày, từ những ham muốn điên cuồng thuyết phục lẫn nhau, phải nói liên tục để giãi bày, để gợi mở, trong một thôi thúc mãnh liệt. Khi ở trong trạng thái đó, người nói không cần dấu chấm, "mà cần hơi thở và nhịp điệu, nhịp độ và giai điệu". Nhiều nhà phê bình đã chỉ ra rằng các câu dài dằng dặc của ông không hỗn loạn mà có trật tự một cách tinh vi, dẫu có nhiều lớp lạc đề, với các ý tưởng, các mệnh đề được mở ra sẽ được kết nối và đóng lại, dù ở vài trang sau đó.Cái thẩm mỹ tận thế của Krasznahorkai, bởi thế, có lẽ không chỉ đến ở nội dung với những sự sụp đổ và tan rã, mà nó hòa quyện không tách rời văn với phong của ông: những câu văn dài bất tận, như mô phỏng chính cảm giác bị cuốn vào một dòng chảy không kiểm soát. Trải nghiệm tận thế bị đẩy lên mức cao nhất về mặt cú pháp, đi kèm với sự mệt mỏi, sự hụt hơi, sự hoang mang mất định hướng. Để tự chủ trong dòng chảy tận thế ấy, cái cần hơn hết là bám chặt và không buông bỏ."Một trò chơi vô tăm tích"Trong cuộc phỏng vấn với Paris Review, Krasznahorkai chia sẻ, vào những năm 1970, vì không thể xuất bản tác phẩm của mình nên các nhà văn, nhà thơ vĩ đại của Hungary đã trở thành dịch giả: họ dịch Dostoyevsky, Franz Kafka, William Faulkner, Marcel Proust, Samuel Beckett... Những hạt mầm văn học dịch gieo vào những độc giả, những nhà văn trẻ hồi đó ở Hungary, mà khi đó có thể làm thợ mỏ, hay chủ nhiệm nhà văn hóa để rồi có hạt nảy nở và hóa thân trong tâm trí của người gác đêm canh giữ ba trăm con bò.Tiếp thu những cây đại thụ của nền văn chương thế giới giai đoạn trước đấy, và chắc hẳn cả giai đoạn sau này mà đại diện dễ nhận thấy nhất là Thomas Bernhard, văn chương của Krasznahorkai quả đã phát triển triển từ truyền thống tiểu thuyết Trung Âu như Ủy ban Nobel đã nhận xét, khi đặc trưng của nó là "chủ nghĩa phi lý cùng sự phóng đại mang màu sắc nghịch dị".Khác hẳn với những lần Nobel văn chương gần đây trao cho Olga Tokarczuk, Peter Handke hay Jon Fosse, khi số lượng số độc giả Việt biết và đọc kỹ họ đếm trên vài bàn tay, Nobel năm nay được hưởng ứng mạnh mẽ, đặc biệt là từ lớp độc giả trẻ. Không chỉ đọc các truyện ngắn hay trích dịch nhỏ lẻ, hai tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt là Vũ điệu quỷ Satan và Chiến tranh và Chiến tranh đều tìm được độc giả của mình, và những tác phẩm lớn như Tây Vương Mẫu giáng hạ hay Nam tước Wenckheim về quê đều được một số độc giả tiếp cận qua các bản dịch tiếng Anh.Krasznahorkai không phải là nhà văn của đại chúng, làm gì có đại chúng nào lại mê những tác phẩm 400 trang viết bằng một câu, nhưng ông thật sự đã tìm được những người yêu văn chương đích thực ở Việt Nam. Việc này phải ghi công những nỗ lực không ngừng của những nhà văn, những nhà phê bình, những câu lạc bộ sách, đã không ngừng đọc và thảo luận ông, không ngừng thúc đẩy một tên tuổi bị coi là "khó đọc" nhất hiện nay trên văn đàn thế giới. Khi ta có một nền văn học dịch tương đối cập nhật, khi độc giả trẻ có khả năng đọc thẳng từ nguyên tác hay bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp các tác phẩm lớn, trong một ngày mùa thu đầy cảm xúc khi idol được giải Nobel, tôi lại le lói chút hy vọng biết đâu hình ảnh cái con diệc trắng săn mồi trên sông Kamo lại hú họa gieo vào đầu một người lạc loài ở một tỉnh lị xa xăm, và 50 năm sau, không vô tăm tích. - Giải Bestenliste ở Đức cho tác phẩm văn học hay nhất trong năm vào năm 1993 cho The Melancholy of Resistance (Nỗi buồn Kháng cự),- Giải Man Booker quốc tế năm 2015 (khi ấy là trao cho toàn bộ sự nghiệp),- Giải thưởng Sách dịch hay vào năm 2013 cho Satantango (Vũ điệu quỷ Satan) và năm 2014 cho Seiobo There Below (Tây Vương Mẫu giáng hạ),- Giải thưởng Sách quốc gia cho Văn học dịch năm 2019 cho tiểu thuyết Baron Wenckheim's Homecoming (Nam tước Wenckheim về quê). Tags: Nobel văn chương 2025Nobel 2025Văn chươngLászló Krasznahorkai
Lễ đón trọng thể Tổng Bí thư Tô Lâm thăm chính thức Phần Lan TTXVN 21/10/2025 Sáng 21-10, Tổng thống Phần Lan cùng Phu nhân đã chủ trì lễ đón Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân Ngô Phương Ly, cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức nước này.
Bí thư Trần Lưu Quang: 'Không chỉ kết nối hạ tầng mà kết nối cái nghĩa, cái tình' HÀ MI 21/10/2025 Trong cuộc làm việc về kết nối hạ tầng giao thông với Đồng Nai, Bí thư Thành ủy TP.HCM Trần Lưu Quang nói cuộc họp không chỉ là kết nối giao thông, mà điều quan trọng hơn là kết nối cái nghĩa, cái tình.
Bão Thần Gió sẽ vào Quảng Trị đến Đà Nẵng, thay đổi vị trí đổ bộ ban đầu LÊ PHAN 21/10/2025 Bão số 12 (bão Thần Gió) sẽ có vị trí đổ bộ thay đổi so với dự báo ban đầu, khu vực đổ bộ dự kiến từ Quảng Trị đến Đà Nẵng.
Vì sao người dân phải nộp sổ đỏ photo để làm sạch dữ liệu quốc gia về đất đai? DANH TRỌNG 21/10/2025 Cơ quan chức năng cho biết công dân chỉ cần cung cấp bản sao sổ đỏ và căn cước công dân khi được tổ công tác yêu cầu, không phải công chứng.